Thứ Năm, 16 tháng 4, 2015

Ông Trần Xanh gửi đơn lên chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng

Ông Trần Xanh năm nay là 92 tuổi, bị lãnh đạo tập đoàn Dầu khí ức hiếp nên mới đến nông nổi này, đơn ông chỉ mô tả được một số sư kiện, còn về nguyên tắc nếu ông không tố cáo lãnh đạo tập đoàn Dầu khí đã can thiệp với chính quyền địa phương tổ chức hãm hại ông thì không ông chủ tịch nào biết đường mà giúp ông được, không co ai ở quốc hội về bàn với UBND phường Thành Công thực hiện mấy điều mà ông Trần Xanh đề nghị được, mọi chuyện đều có pháp luật xử lý và chính ông phải tố cáo UBND phường Thành Công đã làm tay sai cho bọn Tập đoàn Dầu  khí hãm hại ông để người ta điều tra và làm rõ.

Nhưng mà ông 92 tuổi  vẫn còn viết mô tả lại một số sự kiện này là một điều rất tuyệt vời, là nguồn thông tin quan trọng, nó phủ nhận tuyên truyền lừa bịp của chính quyền và bọn tập đoàn Dầu khí, hiện nay bọn tập đoàn Dầu khí là ông Trần Xanh ở đấy không có vấn đề gì, chì là con gái ông bị điên,  nên bịa đặt ra mọi chuyện.





Chân dung ông Trần Xanh trong lòng người lính xăng dầu




Thứ Hai, 16 tháng 3, 2015

Tập đoàn Dầu khí đã bức hại mạng sống của ông Trần Xanh như thế nào??? - giai đoạn ông đã về hưu

Ông Trần Xanh, nguyên Viện trưởng Viện kỹ thuật xăng dầu- Cục phó Cục Xăng dầu, tổng cục hậu cần, nguyên Chánh văn phòng tập đoàn Dầu khí, ông về hưu năm 1988, là cán bộ hưu trí của ngành Dầu khí

Thế nhưng, sau khi đã về hưu, ở tuổi thập cổ lai hy ông lại bị tập đoàn Dầu khí ngược đãi như sau:

Tại thời điểm nghỉ hưu ông sống tại căn  hộ 212 E3 khu tập thể Dầu khí, Phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội (xem quyết định phân nhà), đó là một căn hộ lắp ghép tuy cũ kỹ nhưng là một căn hộ rõ ràng.

Nhưng năm 1994 Tập đoàn Dầu khí không cho ông Trần Xanh ở trong nhà, họ lấy nhà ông Trần Xanh ở 212E3 phân cho cán bộ khác là ông Lộc phó Tổng Giám đốc công ty Dung Dịch khoan và hóa phẩm Dầu khí (DMC) để sinh sống, ông Lộc có giấy tờ nên buộc ông phải ra khỏi nhà, cướp không nhà ông Trần Xanh, đến ở hưởng thụ mọi tiện nghi là ông Trần Xanh đã bỏ tiền ra để làm phục vụ cuộc sống như hệ thống điện nước, bể nước, cánh cửa,...mà không trả cho ông Xanh các chi phí mà ông đã phải bỏ ra để cải tạo căn hộ, trong khi ông Trần Xanh không có quyết định thu hồi.

Họ sắp xếp sẵn một gian nhà kho nằm sau nhà D4 (ngay sau nhà ông Nguyễn Hòa -  nguyên Tổng cục trưởng tổng cục Dầu khí ,người trực tiếp bức hại ông Trần Xanh khi đang còn làm việc) và ra quyết định chấp nhận cho ông Trần Xanh thuê căn hộ số 110D4 cho ông Trần Xanh thay cho việc giải thích vì sao bỗng nhiên ông không được ở tại căn hộ 212 E3 ( xem quyết định chấp nhận cho thuê nhà)
Sau này, ông Trần Xanh được cấp sổ đỏ căn hộ 110D4 sau khi ông nộp tiền mua căn hộ theo nghị định 60, 61 của chính phủ ( xem sổ đỏ)



Trong quyết đinh chấp nhận cho thuê căn hộ và Sổ đỏ ghi rõ là căn hộ như vậy, tuy nhiên khi ông Trần Xanh nhận nhà thì hiện trạng căn hộ đã bị biến đổi, đó chỉ là một nhà kho không có nhà  vệ sinh,  cửa ra vào chính thức đã bị bịt kín,  ông phải đi vào nhà kho theo đường đi tạm đi vào bể nước.

Qua tìm  hiểu được biết do trước đấy tập đoàn Dầu khí định  biến căn hộ 110 D4 là nhà kho nên họ bịt cửa chính đi ra hành lang để cách ly nhà nho với khu tập thể, nhà kho không có nhà vệ sinh ( không có đầu chờ để nhận chất thải ), ông phải tự làm đường thải đi vệ sinh ra các đường ngầm đi ngang qua căn hộ nhà kho của ông trong sự bao vây hãm hại của một  nhóm người Dầu khí và địa phương (họ không cho làm)

Tuy nhiên khi ông cải tạo nhà kho (làm nền, làm nhà vệ sinh,..) về sống tại nhà kho thì nảy sinh vấn đề, bất cứ khi nào khu tập thể bị tắc đường ống đồng nghĩa với nước tắc trên tầng 2 và nước thải tràn qua nền nhà chảy xuống tầng 1 như nước mưa qua các đường đường nối các tấm panel trần nhà, rất ô uế, không đảm bảo điều kiện để làm nhà kho để chứa đồ đạc hay cho con người sinh sống tại đây.

Tuy quyết định là phân cho ông căn hộ nhưng hiện trạng là một nhà kho không thể ở được.

Sự việc không chỉ dừng ở đấy, dưới sụ kích động và bảo kê của lãnh đạo tập đoàn Dầu khí ( mà có lẽ văn phòng tập đoàn bố trí ông Xanh vào ở giữa đám người của nhà ông Nguyễn Hòa như ông Phổ, và gầy dựng lên ông Bảy để tra tấn ông Trần Xanh theo cường độ và mức độ được chỉ đạo trong từng thời điểm và giai đoạn khác nhau) , cán bộ Dầu khí được bố trí sống xung quanh nhà kho của ông Xanh bắt đầu tra tấn ông,  Phía trước nhà kho chủ nhân căn hộ 109 bên cạnh chiếm lấy hành lang lối đi chung cho 2 căn hộ 109 và 110 làm nơi ở riêng.

Phía sau căn hộ, cũng chính căn hộ 109 bên cạnh xây ngăn không gian sống riêng ra tận bờ rào để sinh hoạt riêng, phần còn lại của ông Trần Xanh bị chủ nhân căn hộ này phối  hợp với dân bên ngoài dùng vũ lực vào khống chế, 30 m bờ rào bị đập phá hoặc chiếm dụng tạo nên một vành đai  khống chế ông dài 30m, rộng khoảng 3m

Ông tố cáo lên chính quyền các cấp nhưng chính quyền im lặng, người dân thì vừa đánh đập ông, vừa chửi rủa ông là lấn chiếm đất đai trái phép, đòi biến của chung thành của riêng, còn ông Đặng Hữu Túy- phó Chánh văn phòng tập đoàn Dầu khí ra sức bênh vực cho bọn tội phạm bằng mồm và diễn giải tình trạng theo một cách khác sự thật, họ diễn giải ông Trần Xanh lấn chiếm đất chung, ông cùng bọn tội phạm tranh nhau đất lưu không nên dẫn đến va chạm,...nói chung họ diễn giải ông Trần Xanh là người vi phạm pháp luật, là người phải bị xử lý chứ không được bảo vệ.

Sự việc của ông lúc đầu được dân khu tập thể và cơ quan Viện Dầu khí ủng hộ và bảo vệ,tuy nhiên sau do lãnh đạo tập đoàn Dầu khí tác động giải tán đám đông bảo vệ ông Xanh, lập  luận của lãnh đạo văn phòng Dầu khí là ông Trần Xanh lấn chiếm đất đai, là kẻ vi phạm pháp luật nên không có căn cứ pháp luật để bảo vệ ông Trần Xanh, lập luận của tập đoàn là không có cơ sở pháp lý, bằng mồm tuy nhiên người ta hiểu tập đoàn đang đánh ông Trần Xanh nên người ta né tránh ông Trần Xanh khỏi bị vạ lây.

Ông tiếp tục bị đánh đập và không có ai bảo vệ, cơ quan Viện Dầu khí khéo léo bảo ông rằng ông nên có đơn nhờ cơ quan Tập đoàn Dầu khí  bảo vệ

Tập đoàn Dầu khí là cơ quan ngược đãi và lừa đảo ông từ trước đấy, ông thật cũng không muốn nhờ vả nhưng tập đoàn Dầu khí là một bên liên quan trong sự việc này, họ chính là cơ quan cấp nhà cho ông.

Ông viết đơn lên lãnh đạo Tập đoàn Dầu khí, văn phòng tập đoàn Dầu khí thẳng thừng bảo với ông  bằng mồm là họ không có liên quan, đó là quyền của UBND phường Thành Công, chính quyền muốn cho ai làm gì thì làm.

Lập luận của tập đoàn Dầu khí là lập luận của bọn xã hội đen, chính lập luận đó tố cáo tập đoàn Dầu khí là tổ chức điều khiển chính quyền, công an bảo kê cho bọn tội phạm đánh đập ông Trần Xanh.

Không chấp bọn lãnh đạo tập đoàn Dầu khí nữa, ông đấu tranh quyết liệt vơi chính quyền các cấp yêu cầu xử lý những kẻ đập bờ rào tràn vào sinh hoạt trong khuôn viên của ông.

 Để đối phó với ông Trần Xanh, tập đoàn Dầu khí đã gửi cho ông một bản công văn số 1565/CV-VP kí ngày 21/4/2000 (xem nơi nhận của công văn là ông Trần Xanh) và gửi cho ông Trần Xanh với nội dung tùm lum để  bản để dọa dẫm ông Trần Xanh


Giải mã công văn số 1565 của Tập đoàn Dầu khí:

Khi ông Trần Xanh viết đơn tố cáo và yêu cầu chính quyền và công an các cấp bảo vệ mình thì văn phòng tập đoàn Dầu khí ra sức tố cáo ông Trần Xanh là lấn chiếm đât đai và công khai đứng ra  bảo vệ bọn tội phạm tấn công ông Trần Xanh, họ lý luận  bằng mồm là ông Trần Xanh cũng chỉ là một kẻ vi phạm pháp luật, tập đoàn không đứng ra bảo vệ, còn nhà D4 là của  nhà nước nên cho ai làm gì là quyền của UBND phường Thành Công, của Tập đoàn Dầu khí khiến dư luận hoang mang.

Tập đoàn viết công văn số 1565 gửi cơ quan các cấp là để răn đe ông Trần Xanh, tuy nhiên vì là hành vi trấn áp ông Trần Xanh và bảo vệ nên tiêu đề và nội dung rất quanh co.

1. Công văn dùng để dọa dẫm ông Trần Xanh nhưng lại không gửi cho ông Trần Xanh vì sợ bị ông phản đối, tập đoàn giả bộ gửi cho UBND phường, là tay chân của Tập đoàn Dầu khí đang dùng để tổ chức tra tấn ông Trần Xanh, thế nhưng nơi nhận lại có tên ông Trần Xanh và họ có gửi cho ông Trần Xanh một bản nhằm trấn áp ông Xanh, , mục đích của họ là muốn xuyên tạc pháp luật diễn đạt quyền hạn của phường đối với nhà D4, phường muốn cho ai làm gì thì làm

1. Tiêu đề của công văn là về việc giải quyết cơi nới lấn chiếm ở khu vực nhà D4 Thành Công mà toàn bộ nội dung lại lờ đi không đề cập đến ai cơi nới lấn chiếm, như thế nào mà kết luận cơi  nới lấn chiếm, và cũng không nêu đích danh ông Trần Xanh vì sợ ông Trần Xanh phản bác, cũng không nêu tên các bọn tội phạm mà ông Trần Xanh đang tố cáo vì tập đoàn Dầu khí bảo kê cho bọn này.

Tập đoàn Dầu khí không có cơ sở kết luận ông Xanh lấn chiếm  nên chỉ viết dọa bóng dọa gió, còn tập đoàn Dầu khí chính là tổ chức bảo kê cho tội phạm hành hung tính mạng ông Xanh để chiếm đóng nơi ở của ông nên tập đoàn Dầu khí trí trá lập luận đó là quyền hạn của phường, nên sau một hồi viết vòng vo không đầu không đũa, tập đoàn Dầu khí bỗng nhiên đề nghị phường thực thi quyền hạn của mình là vì vậy, thông điệp chính xác của tập đoàn Dầu khí là tiếp tục quyết tâm đánh đập ông Trần Xanh tới cùng 

 Tuy lập lờ như vậy rồi thấy chính quyền địa phương tố cáo ông Trần Xanh lấn chiếm đất chung lên các cấp, điều này chứng tỏ tổ chức tập đoàn Dầu khí đã hướng dẫn chính quyền trên bàn rượu cách thức tra tấn ông Trần Xanh

3. Căn cứ để tập đoàn Dầu khí viết công văn số 1565 là nhằm bảo vệ cán bộ công nhân viên Dầu khí sống trong tòa  nhà D4 là lừa đảo, cả nhà D4 chỉ có ông Trần Xanh bị tra tấn đánh đập và làm nhục nhưng tập đoàn đứng ra  bao che cho tội phạm, diễn giải ông Trần Xanh như một tên tội phạm đáng bị xử lý, không đáng được bảo vệ, họ diễn chính quyền phường Thành Công - Ba Đình có quyền hạn muốn cho ai làm gì thì làm ở tòa nhà D4 để bảo vệ tội phạm, tập đoàn Dầu khí đã sử dụng biện pháp xảo ngôn để đánh tráo mục đích gian ác và bất nghĩa của mình.

4.  Toàn bộ nôi dung công văn chỉ diễn giải và hướng dẫn cho UBND phường thực hiện quyền hạn của mình tại nhà D4 một cách vô lí, còn cán bộ công nhân viên đã bỏ tiền ra thuê hoặc mua nhà đều không có quyền chi hết, nội dung công văn này hoàn toàn dùng để ngụy biện cho chính quyền, cho bọn tội phạm và cô lập cán bộ công nhân viên Dầu khí sống trong tòa nhà chứ không phải là nhằm bảo đảm an ninh trật tự cho họ, trong việc này tổ chức Dầu khí đã dùng biện pháp xảo ngôn để che đậy thực tế, thực tế chỉ có mỗi mình ông Trần Xanh bị tấn công và tập đoàn Dầu khí lộ rõ là tổ chức đứng đằng sau tội phạm bằng cách dùng nhiều biện pháp để tuyên truyền bẻ cong pháp luật, phủ nhận quyền hạn của cán bộ công nhân viên trong khu tập thể, cô lập ông Trần Xanh.

Quyền hạn hay trách nhiệm quản lý của UBND phường Thành Công, của tổ chức Tập đoàn Dầu khí được qui định trong pháp luật theo nguyên tắc chính quyền chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, được qui định trong từng câu chữ, từng điều khoản chứ không phải là do tập đoàn Dầu khí tự suy luận và giải thích cho chính quyền địa phương nhằm tấn công cán bộ hưu trí của ngành mình

 Người dân được làm  những gì pháp luật không cấm, những điều cấm đã được qui định rõ ràng từng câu chữ trong các điều luật, chứ không phải là do lãnh đạo tập đoàn Dầu khí suy luận và hô hoán lên và điều khiển chính quyền địa phương buộc tội cho ông Trần Xanh cán bộ hưu trí của mình.

Công văn 1565 cũng chứng minh cho việc Tập đoàn Dầu khí can thiệp thô bạo vào công việc của chính quyền phường Thành Công, Ba Đình, Hà Nội, hành vi này hiển nhiên chứng minh tập đoàn Dầu khí đã biến thái thành một tổ chức tội phạm.

Tập đoàn Dầu khí đã nhân danh nhà nước, nhân danh sở hữu nhà D4 mà cho người này, người kia làm gì thì làm, rồi không trung thực trong nói và làm, chính họ hướng dẫn cán bộ biến của chung thành của riêng và phần còn lại là khoảng không bao quanh phía sau căn hộ ông Trần Xanh chúng cũng hô hào là của chung để vây đánh ông Trần Xanh tứ phía rồi đổ nước thải vào người ông, vào xung quanh phòng ở của ông rồi vu cho ông là bọn tội phạm, là kẻ lấn chiếm đất đai, là kẻ vi phạm pháp luật để cùng chính quyền địa phương đánh hội đồng, và làm nhục ông Trần Xanh dưới nhiều hình thức khác.

Đi đâu ông Đặng Hữu Túy cũng thanh minh là ông Trần Xanh vi phạm pháp luật nên tập đoàn không có cơ sở pháp lý để bảo vệ, thực chất đây là hành động đi tuyên truyền, vu khống cho ông Trần Xanh vi phạm pháp luật.

Ồng Trần xanh mới chính là người bỏ tiền ra ở vị trí nhà ở 110D4, trước là thuê, sau đó là mua, ông có quyền hạn chứ không phải là UBND phường và tập đoàn Dầu khí có quyền hạn.

Thực ra công ty kinh doanh nhà số 1 (đơn vị mà tập đoàn Dầu khí chuyển giao nhà D4 để họ làm sổ đỏ cho các hộ dân) cũng chẳng làm gì ông Trần Xanh, mà chính Tập đoàn Dầu khí là tổ chức điều khiển chính quyền, công an kích động, bảo kê cho cán bộ dầu khí và số dân địa phương sống bên ngoài bờ rào tham lam, thiếu hiểu biết pháp luật  tấn công hội đồng ông Trần Xanh và họ viện dẫn công ty kinh doanh nhà số 1ra để biện minh cho hành động của mình, ông bị lãnh đạo tập đoàn tổ chức cho người ngoài nhảy vào tra tấn khi tập đoàn còn sở hữu nhà D4, vừa khủng bố ông vừa hô hoán ông vi phạm pháp luật để cô lập, bịt miệng ông, vừa hô hoán đấy là quyền của UBND phường Thành Công để bảo kê cho bọn tội phạm do chúng nó tổ chức.

Việc kích động dân chúng hành hạ ông Trần Xanh bị chúng tôi vạch trần, và yêu cầu Tập đoàn Dầu  khí chấm dứt tội ác, chỉ ra cho họ biết những người tiền nhiệm đã làm gì qua công văn số 1565, nhưng tiếc rằng tổ chức tập đoàn Dầu khí không biết phục thiện, không biết chịu trách nhiệm khi lãnh đạo văn phòng đã nhân danh công ty làm những việc gian ác đối với ông Trần Xanh, cũng như xưa họ không có công văn trả lời chính thức, họ trả lời vòng vo nhằm tránh bị dư luận chỉ trích.

Công văn số 1565 là để bảo vệ những người dân địa phương đập bờ rào nhà D4 đoạn xung quanh nhà ông Trần Xanh, sau khi có công văn nhà ông Minh, ông Yên sống bên khu tập thể nhà D2 vừa thuê thợ đập bờ rào, cơi nới thành nhà của đi vào khuôn viên ông Trần Xanh sinh sống mà không vấp phải bất cứ sự phản đối nào của cư dân nhà D4 ngoài ông Trần Xanh, bởi vì tất cả bị Dầu khí đã bị lãnh đạo tập đoàn Dầu khí trấn áp hoặc mua chuộc, hoặc họ không muốn chống lại tập đoàn.

Sau khi bảo vệ dân ngoài đập tứ tung, ông Bảy sống bên cạnh cũng được chúng hướng dẫn chiếm bể nước và bịt một đầu bên trái đường đi vào bể nước để làm nhà ở và cùng phối hợp dân ngoài khống chế ông Trần Xanh, ông Báy được dựng lên làm tổ trưởng tổ dân phố nhà D4 và tham gia vào công việc quan trọng của địa phương.

Sau đó thấy được chính quyền bảo vệ nên con ông Bảy toàn làm càn cốt đuổi ông Trần Xanh đi, đêm tối đập cửa dọa giết, đổ nước thài tràn lan xung quanh khoảng đất trống mà chúng dùng vũ lực chiếm sau nhà để làm chủ bãi đất, sau đó thì biến khuôn viên của ông thành bãi trông xe, phơi quần áo, nấu bếp than,.....

Ngoài ra trong quá trình cầm cự ở nhà kho 110 sau nhà D4 khu tập thể Dầu khí, ông Trần Xanh còn bị chi cục thuế yêu cầu nộp tiên thuế đất với một miếng đất ảo ( xem thông báo)




Các thông tin trong thông báo của chi cục thuế quận Ba Đình là mật mã giải nghĩa cho việc họ đã lập hồ sơ ảo về địa chỉ căn hộ 110 D4 - Hà Nội để xóa dấu vết ông bị tập đoàn Dầu khí ngược đãi.

Cụ thể như sau:

1. Vị trí căn hộ 110 D4 biến thành thủa đất 110-D4, Tổ 52, Phường Thành Công, Quận Ba Đình. Hà Nội trong hồ sơ các cơ quan chức năng (xem mục 3 của bản thông báo).

2. Diện tích căn hộ cũng phải nộp tiền thuế đất, họ gọi đó là diện tích đất ở trên GCN ( xem mục 5.1 của bản thông báo), trong khi đó trong sổ đỏ của căn hộ 110D4 có ghi rõ ông Trần Xanh không có đất sử dụng riêng.

3. Ông bị một nhóm người dân Dầu khí và địa phương tấn công từ 4 phía nên tổ chức co cụm sống ở giữa, nhóm người dân khống chế ông tạo thành một vành đai dài khoảng 30 m theo chiều dài của bức tường bao quanh phía sau căn hộ, rộng khoảng 3m tính từ bức tường bờ rào bị đập phá, được chính quyền diễn giải trong hồ sơ đây là đường của địa phương (xem trong mục 4.5, 4.6 của bản thông báo). Vẽ đường cụt của đia phương là để duy trì một lực lượng người của chúng nó luôn ở sẵn trong nhà ông để hành hạ, cưỡng bức ông Trần Xanh và người lạ có thể vào bất cứ lúc nào để tấn công ông.

4. Chính quyền cho căn  hộ bên cạnh xây dựng ngăn cách không gian riêng ra tận bờ rào để tổ chức cuộc sống, phần còn  lại của khoảng không bên ngoài căn hộ ông Trần Xanh là của ông Xanh, tuy nhiên ông vừa bị chính quyền tổ chức tấn công, vừa bị chính quyền vu oan cho ông là lấn chiếm đất đai, hồ sơ đã được vẽ để khẳng định ông Trần Xanh là kẻ lấn chiếm đất đai ( xem mục 5 và 5.1 của thông báo)

Tóm lại khi các bạn nhận được đơn tố cáo của gia đình ông Trần Xanh xem soi chiếu thực tế hiện trạng sử dụng bằng mắt, bằng cảm tính và đối chiếu với hồ sơ giả do chính quyền lập ra thì các bạn sẽ không sao hiểu được gia đình đang tố cáo cái gì vì bằng chứng ngược đãi vẫn còn trên thực tế nhưng bị hồ sơ ảo xóa dấu vết.

Ngoài ra đầu bản thông báo họ có ghi rõ là thông báo dựa trên thông tin kê khai của người nộp thuế và xác định của cơ quan chức năng, có khả năng là cơ quan chức năng đã lừa đảo người cao tuổi là ông Trần Xanh phải kí vào những giấy tờ do họ soạn ra nhằm xây dựng hồ sơ ảo về ông.

Tập đoàn Dầu khí, chính quyền, công an đều lả các tổ chức do đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đảng đã ngược đãi ông sau khi lợi dụng trí tuệ, xương máu và sức lực của ông, ông bị đối xử không như người bình thường khác, không phân nhà cho ở mà phân nhà kho ở với phân và đánh đập và bị lập hồ sơ ảo.

Chính quyền lập hồ sơ ảo cũng chỉ là để che đậy sự  nhơ nhớp của tổ chức tập đoàn Dầu khí.

Tập đoàn Dầu khí cũng là nơi tung tin thị phi nhằm lèo lái dư  luận  bảo vệ cho bọn tội phạm như bịa đặt về việc có con đường cụt sau nhà D4, ông Trần Xanh lấn chiếm đất đai ra đến chỗ nọ chỗ kia và im bặt về chuyện có  bức hàng rào cao 2m bao quang căn hộ của ông.

Xâu chuỗi sự việc vì sao tập đoàn Dầu khí đuổi ông ra khỏi  nhà 212E3 là để dồn ông về sống ở nhà kho khuất sau nhà D4 để tiện cho việc bố trí tổ chức đánh đập ông, còn ông thì thật thà cả đời phục vụ cho đảng từ lúc 20 tuổi cho đến lúc về hưu, ông không có điều kiện vật chất để mua nhà mới.

Chính tập đoàn Dầu khí là đơn vị công khai điều khiển, trấn áp UBND phường không cho họ xử lý công việc, bắt buộc phải bảo vệ tội phạm cho tập đoàn Dầu khí và bắt buộc ông Trần Xanh phải sống tồn tại như một loài vật, không có nhân phẩm, không có nhân quyền.

Tập đoàn Dầu khí cũng là tổ chức mà ông Trần Xanh viết đơn tố cáo Lãnh đạo Tập đoàn lên thủ tướng chính phủ, nội dung đơn tuy hòa nhã nhưng toát lên việc ông bị Lãnh đạo tập đoàn Dầu khí đối xử rất ngược đãi, lừa đảo, dối trá và vô ơn,...

Sự việc Tập đoàn Dầu khí bách hại ông Trần Xanh sau khi ông đã về hưu diễn ra song song với việc bên cơ quan Cục xăng dầu - Tổng cục hậu cần thuê nhà văn Trần Nhương viết sách xúc phạm ông Trần Xanh, nói sai nói xấu con người và sự kiện trong khi triển khai công trình X42 lịch sử chính ngành xăng dầu quân đội để phủ nhận , Cục xăng dầu quân đội phối hợp với báo chí đưa ông Phan Tử Quang nguyên Tồng cục trưởng tổng cục xăng dầu- Tổng cục hậu cần (là quân của ông Đinh Đức Thiện) lên chức danh tổng công trình sư của công trình dã chiến xăng dầu.

Còn đồng bọn của chúng ở tập đoàn Dầu khí (cũng là quân của ông Đinh Đức Thiện) thì tổ chức tra tấn ông để ông như tôi đã mô tả trên để ông không còn tâm trí, sức lực để phản biện, phản đối để bảo vệ sự thật, chúng còn tổ chức lừa đảo ông dẫn con gái vào ngành Dầu khí để làm con tin, khi không được như ý thì chúng nó giở trò ngược đãi nhân phẩm, nhân quyền để khống chế tiếng nói của ông, chúng muốn điều khiển ông làm bút nô cho chúng nó nhưng ông không bao giờ chấp nhận.

Lãnh đạo công ty DMC là người cướp nhà của ông Trần Xanh và cũng chính một lãnh đạo DMC khác là người đến lừa ông Trần Xanh dẫn con gái vào ngành Dầu khí để làm con tin, dùng con gái để điều khiển ông Xanh, DMC là cái ổ của bè lũ Đinh Đức Thiện, chúng lựa chọn ông Tạ Đình Vinh- giám đốc công ty DMC đến lừa ông Xanh.

Theo như lời kể của ông Xanh, ông Xanh là ân nhân của ông Vinh, khi ông T. Xanh làm Viện trưởng Viện dầu khí,  ông Vinh là người chịu thiệt thòi vì ông là con rơi của ông Địa chủ với người giúp việc nên ông bị phân biệt đối xử ngay trong gia đình địa chủ, hình như là bị đuổi đi, đến khi đi làm thì bị tổ chức phân biệt đối xử vì là thành phần con địa chủ, tuy nhiên ông T.Xanh coi trọng năng lực và không phân biệt đối xử, đã cho ông Vinh làm trưởng phòng Dung dịch khoan và hóa phẩm Dầu khí  mà sau  này ông Vinh phát triển thành công ty con là công ty DMC, do đó ông Trần Xanh không ngờ ông Vinh lấy ơn trả oán tìm đến nhà lừa đảo ông Trần Xanh dẫn con gái vào DMC để làm con tin.

Trước đây vì yêu nước mà ông đứng ra nhận nhiệm vụ lịch sử là xây dựng đường ống dẫn dầu qua để đưa xăng vươt qua hàng rào lửa của địch tiếp xăng cho tuyến vận tải 559 để đưa người và vũ khí vào Nam đánh Mỹ, ông không kể gì công sá, công trình  này kéo dài mấy nghìn mét, có lẽ đây một công trình vô tiền khoáng hậu chưa được thực hiện ở nơi nào trên thế giới trong hoàn cảnh bị đánh phá khắc nghiệt, công trình do người Việt tự làm.

Nhưng sau chiến tranh ông bị lệnh bằng mồm sang xây dựng ngành Dầu khí, làm việc rất vất vả trong để xây dựng Viện dầu khí trong hoàn cảnh khó khăn, ông lại bị cướp công ngược đãi nên đời sống ông rất khó khăn ngay trong thời bình, khi tuổi đã cao lại bị đuổi ra khỏi  nhà và phải ở nhà kho không có nhà vệ sinh, nước phân tươi có thể chảy xuống đầu ông bất cứ lúc nào khi khu tập thể tắc đường ống.

Chúng cũng bố trí gây tai nạn cho ông, nhưng tạ ơn chúa ông phục hồi và ngồi tại vị trí nhà kho đấy phân và tấn công tứ phía này để một lần nữa thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình, trước đây vì yêu nước ông đứng ra nhận nhiệm vụ xây dựng đường ống dã chiến (phần kỹ thuật), trực tiếp khảo sát, thiết kế, thi công và vận hàng tuyến ống X42 đưa dầu qua tam giác lửa Vinh-Nam Đàn-Linh Cảm như thế nào, đây là tài liệu cho biết ai là người xây dựng nên đường ống dã chiến xăng dầu đánh Mỹ,  biến ước mơ của cộng sản thành hiện thực, nay ông lại một mình đứng ra bảo vệ lịch sử.

Hiện nay các tài liệu của Cục Xăng Dầu và các cá nhân khác chỉ ghi chung chung các kết quả và công thuộc về lãnh đạo, khi phía Mỹ muốn tìm gặp người thiết kế đường ống xăng Dầu thì họ đưa  lãnh đạo là Phan Tử Quang - Nguyên cục trưởng Cục Xăng Dầu ra chiếm công và sắp đặt giết ông Trần Xanh bằng mọi cách,  tuy nhiên do ông Phan Tử Quang không làm và không trình bày được nên  họ cũng không thu được gì

Ông cơi nới ra một gian nhà mái tôn để ngồi viết 3 văn bản gửi cho các cơ quan chức năng là nhà xuất bản quân đội, Cục xăng dầu, hội nhà văn Việt Nam lên tiếng nói đanh thép của mình, ông không khuất phục trước những chiêu trò của những người đồng chí cộng sản, chỉ rõ họ là những người đồng sàng nhưng dị mộng, quay lại bắn vào lịch sủ của ngành và gieo tai họa cho dân tộc, nhắc nhở họ về sự trừng phạt của Đức Chúa Trời....có lẽ việc ông lấy sự phán xét của Đức Chúa Trời để nhắc nhở người cộng sản chính là sự phản đối cao nhất mà tôi được biết, ông đã tin vào Đức Chúa Trời nên ông đã được cứu.

Sau này tìm hiểu tôi được biết, khi còn chưa đi bộ đội, ông Trần Xanh có thời gian dạy tiếng Pháp cho một tường tư thục của công giáo ở huyện Đức Thọ (hồi đó công giáo vẫn được mở trường tư thục), ông Trần Xanh đã đọc hết kinh thánh tại đây, ông đã lĩnh hội được lời của chúa, điều này người đời có thể kiểm nghiệm qua đời sống công chính của ông,  ông rất hiền lành, khiêm nhường, tế nhị, điều độ, không bao giờ nói tục, kiên trì chịu đựng trong gian nan khốn quẫn,...để sống trong sạch, nhẫn nhục, nhân hậu, thánh thiện, thât thà, ông không tham gia các  nghi lễ công giáo nhưng cơ thể sạch sẽ của ông chính là đền thờ của Chúa, chính ông Trần Xanh đã ở trong thần khí của Thiên Chúa, trong lòng ông luôn có Chúa, bởi thế Thiên Chúa đã ở với ông và ban an lành cho gia đình ông.

Tham khảo 3 bài viết phản đối của ông tại:

http://www.tranthicamthanh.blogspot.com/2014/10/ho-so-vu-ong-tran-xanh-ong-no-luc-au.html
http://www.tranthicamthanh.blogspot.com/2014/11/ho-so-vu-ong-tran-xanh-ong-no-luc-au.html
http://www.tranthicamthanh.blogspot.com/2014/11/ho-so-vu-ong-tran-xanh-ong-vach-tran.html

Ngoài ra ông còn nỗ lực viết được một cuốn sách ở dạng hồi ký kể về việc ông đã được lệnh xây dựng đường ống xăng dầu dã chiến như thế nào (về phần kỹ thuật) ? đường ống hình thành như thế nào? ông đã thiết kế, tổ chức thi công và chỉ huy vận hành đoạn đầu tiên đường ống X42 để đưa xăng vượt qua tam giác lửa ra sao,  cục xăng dầu được thành lập sau sự thành công của X42...

Đồng bọn của quân nhà Đinh Đức Thiện ở quê hương Hà Tĩnh cũng đuổi ông đi, họ cướp nhà đất của vợ chồng ông và đuổi đi,...trong hoàn cảnh khốn khó tận cùng bị bách hại Thiên Chúa đã thương người công chính nên che chở cho ông vượt qua, đó là các tai nạn được dàn xếp khi ông tham gia giao thông,...

Ông đã hoàn thành công việc của ông, công việc không ai đủ kiến thức, bản lĩnh và vai trò pháp lý có thể thay ông làm được (ông chính là Cục phó cục xăng dầu phụ trách kỹ thuật xây dựng đường ống dã chiến xăng dầu, viện trưởng viện kỹ thuật xăng dầu), sau khi hoàn thành cơ bản, ông bị chúng nó khủng bố cho đột quị 2 lần, mỗi lần phục hồi được sức khỏe càng kém, chân ông hiện nay rất yếu và vẫn bị  chúng làm nhục..nhưng tạ ơn chúa, dù bị bị hạ nhục đẩy vào chỗ nhớp nhúa dơ bẩn nhưng thần khí của của một người công chính như ông vẫn lan tỏa xung quanh, mang phước lành cho con cháu

Hiện nay an ninh Hà Nội đang đánh tiếng đe dọa tôi "nếu bố tôi chết đi thì họ sẽ hành hạ tôi" trong khi chính chúng nó đang ngược đãi bố tôi, tôi chỉ là người loan báo thông tin tội ác của chúng nó với bố tôi, tôi chẳng sợ gì họ.

Hiện nay họ vẫn đang thành lập một vành đai bao vây nhà ông, cửa chính đằng trước thì họ chặn không cho ông đi ra, phía sau căn hộ thì họ thiết lập một vành đai  bao vây ông, vừa đe dọa đánh đập, vừa xả nước thải cho hôi thối và rất nhiều trò để khiêu khích ông và gia đình để kiếm cớ đánh đập và hằng ngày ông vẫn phải đi lại qua khu vực bị khống chế để đi ra ngoài.

Phải chăng họ tự chứng minh, bản chất của họ là vậy, dù cho sự việc đã bị phơi bày, họ đang sống trong tội lỗi


Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2015

Đọc Sách: (05) Peace With God _ Bình An Với Chúa – Sự Kiện Kinh Khủng Về Tội Lỗi (Tác giả : Billy Graham _ Chuyển ngữ: Hà Huy Việt)

CHƯƠNG 4

Sự Kiện Kinh Khủng Về Tội Lỗi
“Vì mọi người đều đã phạm tội thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô-ma 3:23)
Image result for Peace With God
Nếu Đức Chúa Trời là Đấng yêu thương công chính như thế thì tại sao lại có quá nhiều gian ác, đau thương, sầu khổ? Tất cả những hận thù ghen ghét này đến từ đâu? Tại sao chúng ta đã tạo ra những thần tượng giả dối này? Tại sao chúng ta đi đến chỗ thờ lạy những đền miếu của lòng tham, tư lợi và tranh chấp? Tại sao nhân loại đã được tạo dựng theo hình ảnh Đức Chúa Trời lại rơi vào tình trạng suy đồi quá sâu đậm đến nỗi Đức Chúa Trời đã phải ban Mười Giới Răn và truyền bảo con người tuân giữ? Tại sao Đức Chúa Trời đã phải sai Con Ngài đến cứu chúng ta? Tại sao tạo vật của Đức Chúa Trời lại đầy dẫy tham dục, gian ác?
Image result for Peace With God
Để hiểu tình trạng này, để thấy thật rõ tại sao các nước kình chống lẫn nhau, tại sao gia đình phân rẽ, tại sao trên báo chí đầy dẫy tin tức về sự bạo hành, những hành vi điên cuồng, tàn ác, hận thù… chúng ta phải trở lại với câu chuyện A-đam tại vườn Ê-đen trong chương đầu sách Sáng Thế Ký.
Có người bảo rằng câu chuyện sáng tạo quen thuộc này chỉ là huyền thoại. Họ bảo đó là một cách giải thích đơn giản cho một câu hỏi không thể trả lời của trẻ con. Nhưng thật ra không phải như vậy. Kinh thánh cho chúng ta biết thật đích xác điều gì đã xảy ra từ đầu và tại sao con người từ đó đã trôi thật nhanh vào con đường tự hủy.
Đức Chúa Trời đã sáng tạo thế giới là một toàn thể hoàn hảo. Ngài tạo dựng một thế giới hài hòa, tốt đẹp, nhưng đã bị con người ném bỏ. Một thế giới toàn hảo ngày nay chúng ta mong có lại, một thế giới tất cả chúng ta đang tìm kiếm.
Trong cái thế giới toàn bích đó, Đức Chúa Trời đặt để một con người toàn bích. Sở dĩ A-đam toàn hảo vì không có gì Đức Chúa Trời sáng tạo lại ở dưới mức toàn hảo và trong con người hoàn toàn này, Đức Chúa Trời đã phú ban món quà quí giá hơn hết là sự sống vĩnh hằng. Ngài cũng ban cho con người món quà tự do là quyền tự do chọn lựa.
Tôi có một người bạn, Tiến sĩ M.L. Scott – một nhà truyền đạo da đen danh tiếng. Ông kể rằng một người bạn của ông có cậu con đi học xa trong một trường đại học, ngày kia trở về thăm nhà với nhiều kiến thức mới. Một buổi tối, cậu nói với cha bằng một giọng quan trọng:
“Thưa cha, từ ngày lên đại học, con thấy con không thể nào chịu nổi cái đức tin đơn sơ, trẻ con của cha đối với Kinh Thánh nữa.”
Người cha ngồi đó nhìn chăm chú gương mặt con không chớp mắt. Cuối cùng ông bảo, “Được rồi, đó là quyền tự do của con – cái quyền tự do ghê gớm của con.”
Đó chính là điều Đức Chúa Trời ban cho A-đam – quyền tự do chọn lựa. Quyền tự do ghê gớm của A-đam.
Con người đầu tiên không phải là người sống trong hang, không phải là một loài thú gầm gừ trong rừng sâu nỗ lực chế ngự những hiểm nguy của rừng rậm và thú hoang. A-đam đã được tạo dựng là một người trưởng thành hoàn toàn với mọi khả năng của thể xác và trí tuệ được phát triển đầy đủ và hàng ngày được tương giao với Đức Chúa Trời. Ý định của Đức Chúa Trời là để A-đam làm vua, cai quản địa cầu theo ý chỉ Ngài.
Đây là địa vị A-đam trong vườn, con người đầu tiên, con người toàn hảo với món quà vô giá, món quà kinh khủng là quyền tự do. A-đam có tự do hoàn toàn – tự do chọn lựa hay loại bỏ, tự do vâng theo hay chống nghịch mạng lệnh Đức Chúa Trời, tự do làm cho mình hạnh phúc hay khốn khổ. Vì không phải chỉ do sở hữu quyền tự do mà con người thỏa nguyện, vấn đề là cách con người sử dụng quyền tự do như thế nào sẽ qui định con người sẽ tìm được sự bình an với Chúa và với chính mình hay không.
Trung Tâm Của Vấn Đề
Đây là trung tâm của vấn đề, vì đúng vào lúc được ban quyền tự do, con người phải đối diện với hai con đường. Tự do trở thành vô nghĩa nếu chỉ có một con đường. Tự do hàm ý chọn lựa, quyết định phương thức hành động. Tất cả chúng ta đều biết những con người chân thật, không phải do quyền tự do chọn lựa, nhưng vì họ không có những cơ hội gian dối. Tiến sĩ Malfred Gutzke từng nói, “Xin quí vị lớn tuổi đừng nghĩ rằng quí vị ngày càng tốt hơn chỉ vì quí vị cứng hơn.” Chúng ta đều biết có những người kiêu hãnh vì họ tốt trong khi thật ra chỉ vì họ ở trong môi trường và lối sống giữ họ không thể sống bệ rạc được. Nếu chúng ta bình yên vô sự chỉ vì không có cám dỗ thì không thể khoe đã chống được cám dỗ!
Đức Chúa Trời không để A-đam trong tình trạng bất lợi, nhưng đã cho A-đam khả năng lựa chọn đồng thời cho cả cơ hội vận dụng tự do đó. Vì Đức Chúa Trời không thể làm điều gì dưới mức hoàn hảo cho nên Ngài đã đặt để A-đam trong một bối cảnh tối ưu để minh chứng ông có tùng phục Ngài hay không.
Ở trong vườn, A-đam hoàn toàn trong trắng, vô tội, không tì vết. Cả vũ trụ đặt trước mặt ông. Toàn thể lịch sử chưa viết của nhân loại trải dài như tấm giấy da mới nguyên trong tay A-đam chờ ông viết chương đầu tiên, chờ ông quyết định chọn con đường cho tất cả các thế hệ tương lai.
Đức Chúa Trời đã hoàn tất công trình của Ngài, đã tạo dựng khu vườn trên đất với đầy đủ mọi điều cho nhu cầu con người. Ngài đã tạo dựng con người toàn hảo theo hình ảnh Đức Chúa Trời. Ngài đã phú ban cho con người linh hồn và tâm trí, cho con người đầy đủ tự do để sử dụng tâm trí, linh hồn tùy ý. Cuối cùng Ngài đã hành sử như một người Cha khôn ngoan chờ xem đứa con sẽ chọn lựa điều gì.
Chọn Lựa Của Con Người
Đây là bài trắc nghiệm! Đây là thời điểm A-đam sẽ dùng ý chí tự do để chọn con đường đúng hoặc con đường sai lầm. A-đam chọn vì ông muốn chọn chứ không phải vì chỉ có một con đường duy nhất!
A-đam đã chọn. Tổ phụ loài người đã lãnh mọi hậu quả và cũng truyền lại cho toàn nhân loại nối tiếp theo sau. “Như bởi chỉ một tội mà sự đoán phạt rải khắp hết thảy mọi người…” (Rô-ma 5:18). Thánh phao-lô cũng bảo rằng, “Cho nên, như bởi một người mà tội lỗi vào trong thế gian, lại bởi tội lỗi mà có sự chết, thì sự chết đã trải qua hết thảy mọi người như vậy, vì mọi người đều phạm tội” (Rô-ma 5:12). Vì A-đam là đầu nguồn nhân loại, ông đã phun lên như một dòng suối trong vắt, được phép chọn lựa trở thành hoặc là một dòng sông tươi mát chảy qua những cánh đồng xanh màu mỡ hay thành một dòng thác đục ngầu xô vào bờ đá và xoáy qua những dốc núi thăm thẳm, tối tăm, đau thương, lạnh lẽo, không thể nào đem vui tươi, kết quả cho vùng đất xung quanh.
Người ta không được đổ lỗi cho Đức Chúa Trời về tình trạng rối loạn bi thương quá lâu của thế giới. Lỗi phạm này là của A-đam. A-đam đã được ban cho quyền chọn lựa, đã quyết định nghe theo lời dối trá của Kẻ Cám Dỗ hơn là chân lý của Đức Chúa Trời! Lịch sử nhân loại từ ngày đó cho đến nay là lịch sử nỗ lực vô ích của con người cố gắng đoạt lại địa vị đã mất do A-đam sa ngã, nhưng thất bại cho nên cũng đã không thể đảo ngược số phận bị rủa sả.
Nhưng có thể bạn sẽ bảo rằng, “Như vậy là không công bình! Tại sao ngày nay chúng ta phải chịu đau khổ vì con người đầu tiên phạm tội trong thời xa xưa? Tại sao trong suốt thời gian dài sau đó con người không thể phục hồi? Tại sao chúng ta vẫn tiếp tục bị trừng phạt mỗi ngày?” Suy nghĩ thông thường hôm nay là có thể cải thiện con người nếu cải tiến môi trường. Nhưng điều kỳ lạ chúng ta cần nhận thức đó là tội lỗi đầu tiên con người đã phạm là phạm trong một môi trường toàn hảo!
Bây giờ chúng ta hãy trở lại với câu chuyện của dòng sông – dòng sông lạnh, tăm tối đang lưu chảy dưới đáy vực. Tại sao dòng sông không tìm đường vươn lên chảy bên những cánh đồng ấm áp phía trên? Tại sao nó không từ bỏ chặng đường buồn thảm đó, trở thành dòng sông tràn trề hạnh phúc, vui tươi như khi nó vừa khơi nguồn trên đất? Lý do đơn giản là nó bất lực và trong nó không có sức làm điều gì khác. Một khi nó đã lao mình xuống bờ dốc thẳm vào vùng tăm tối, nó không thể tự nâng lên vùng đất bên trên rực rỡ ánh mặt trời. Phương tiện để nâng dòng sông lên vẫn có đó, vẫn hiện hữu nhưng dòng sông không hiểu phải sử dụng phương tiện đó như thế nào. Điều này nhắc tôi nhớ đến sông Hoàng Hà (nay là Trường Giang) bên Trung Hoa. Con sông này cuốn lôi bùn đất ra biển có đến hàng dậm, biến vùng nước trong xanh của đại dương thành mầu vàng đục. Nó hoàn toàn không thể làm gì khác!
Có một phép lạ luôn luôn sẵn sàng đưa dòng sông nhân loại ra khỏi cảnh khốn cùng trở lại với thung lũng ấm áp, bình yên, nhưng dòng sông không muốn. Nó cảm thấy mình không thể làm gì khác hơn là tiếp tục hành trình khốn khổ đau thương cho đến khi lạc mất vào đại dương hủy diệt.
Câu chuyện của dòng sông là câu chuyện của con người từ thời A-đam, quanh co, uốn lượn, lao xuống ngày càng sâu hơn vào bóng tối kinh hoàng. Dù đã cao giọng kêu la cầu cứu, nhưng chúng ta vẫn cố tình chọn lựa con đường lầm lạc như A-đam ngày xưa. Trong nỗi thất vọng sâu xa, chúng ta quay lại chống nghịch Đức Chúa Trời, đổ lỗi cho Ngài đã đưa chúng ta đến đường cùng. Chúng ta nghi ngờ sự khôn ngoan và sự phán xét của Ngài. Chúng ta chỉ trích lòng thương xót và tình yêu của Ngài. Chúng ta quên rằng A-đam là đầu của nhân loại, như tại Hoa kỳ Tổng thống đứng đầu chính phủ. Khi Tổng thống hành động, đó thực sự là toàn thể dân chúng Mỹ hành động qua ông. Khi Tổng thống quyết định, quyết định đó là quyết định của toàn dân.
A-đam là cội nguồn chung cho toàn nhân loại, cũng là thủy tổ chúng ta. Như chúng ta thừa hưởng các đặc tính thông minh, màu da, vóc dáng, tính tình từ ông bà, cha mẹ, thì nhân loại cũng thừa hưởng bản chất sa ngã, hư hoại từ A-đam. Khi A-đam khuất phục cám dỗ và sa ngã, những thế hệ tương lai cùng sa ngã theo, vì Kinh Thánh tuyên bố thật rõ ràng rằng hậu quả tội lỗi A-đam sẽ để lại trên từng hậu tự. Chúng ta đều biết quá rõ chân lý đắng cay trong những phân đoạn Kinh Thánh như Sáng Thế Ký 3:17-19 mô tả thảm kịch mà hành động của A-đam đã để lại cho tất cả chúng ta: “Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật đất sinh ra mà ăn. Đất sẽ sinh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi có ngươi ra; vì ngươi là bụi đất, ngươi sẽ trở về bụi đất.” Còn đối với Ê-va, Chúa phán: “Ta sẽ thêm cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sinh con, và sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi” (Sáng Thế Ký 3:16).
Nói cách khác, vì nguyên tội của A-đam mà đất có thời chỉ sinh ra những giống cây ích dụng, xinh tốt thì nay sinh ra cả cây xấu lẫn cây tốt. Trước đó con người sống trong vườn chỉ cần đưa tay ra là có thức ăn, không cần áo quần hay nơi ở, nay phải lao động cực nhọc suốt đời để lo cho mình và gia đình. Người nữ từng là một sinh vật vô lo hơn hết, nay đầy sầu thảm, đau buồn; Cả người nam và người nữ đều ở dưới án chết cả thuộc thể lẫn thuộc linh. Cái chết có ba phương diện: 1) chết tức khắc về phương diện thuộc linh; 2) khởi đầu của cái chết thuộc thể (từ khi chào đời chúng ta đã khởi sự bước vào tiến trình chết thuộc thể); và 3) cuối cùng là cái chết đời đời.
Tội Lỗi Xâm Nhập
Qua A-đam tội lỗi đã xâm nhập nhân loại và từ đó đến nay con người đã nỗ lực loại trừ tội lỗi nhưng không thành công. Cũng vì vậy nhân loại đã hoài công tìm kiếm phương cách có thể đảo ngược số phận bị rủa sả này. Kinh thánh cho biết Đức Chúa Trời đã cảnh cáo A-đam trước khi phạm tội rằng nếu ăn trái cây tri thức thì chắc sẽ chết. Kinh thánh cũng cho biết Đức Chúa Trời truyền dặn A-đam và Ê-va “sinh sản thêm nhiều và làm đầy dẫy đất.” Nhưng dù đã được tạo dựng theo hình ảnh Đức Chúa Trời, sau khi sa ngã, A-đam và Ê-va đã sinh con cái giống như họ, theo hình ảnh họ. Hậu quả là Ca-in và A-bên đã nhiễm căn bệnh tội lỗi đem đến cái chết thừa hưởng từ cha mẹ và lưu truyền cho từng thế hệ kể từ ngày đó. Tất cả chúng ta đều là tội nhân do di truyền và cho dù cố gắng đến đâu, chúng ta không thể nào thoát khỏi cái quyền thừa kế đó.
Chúng ta đã tìm đến đủ mọi phương cách để dành lại địa vị A-đam làm mất. Chúng ta đã thử dùng giáo dục, triết học, tôn giáo, chính quyền để tháo gỡ cái ách tội lỗi và sa đọa. Chúng ta đã tìm cách hoàn tất những điều Đức Chúa Trời muốn
bằng cách dùng tâm trí đã bị tội lỗi giới hạn, trong khi biết rõ rằng nỗ lực này chỉ có thể đến từ trên cao. Động cơ của chúng ta có thể tốt và những nỗ lực của chúng ta đáng khen, nhưng tất cả còn quá thấp, quá xa mục tiêu cần đạt tới. Tất cả các kiến thức, các phát minh, tất cả những tiến bộ và những kế hoạch đầy tham vọng chỉ giúp chúng ta vươn tới rất ít, để rồi ném chúng ta trở lại khởi điểm, vì chúng ta vẫn phạm cùng những lỗi A-đam đã phạm – chúng ta vẫn đang cố gắng tự làm vua bằng sức riêng, bằng quyền riêng thay vì tuân giữ luật Chúa.
Trước khi dán nhãn bất công, vô lý cho Đức Chúa Trời và đổ thừa Ngài đã cho phép tội lỗi tràn vào thế gian, chúng ta cần nhìn vào tình hình kỹ lưỡng hơn. Với lòng thương xót vô biên Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến chỉ cho chúng ta con đường ra khỏi khó khăn. Đức Chúa Trời đã đưa con Ngài đến với cùng những cám dỗ A-đam đối diện, nhưng Con Đức Chúa Trời đã đắc thắng. Sa-tan đã cám dỗ Chúa Giê-xu như nó đã cám dỗ A-đam. Sa-tan hứa dâng cho Chúa Giê-xu uy quyền và vinh quang nếu Ngài từ bỏ Đức Chúa Trời, y như những gì nó đã hứa cho A-đam qua Ê-va.
Lựa Chọn Của Chúa Cứu Thế
Điểm khác biệt lớn nhất là Chúa Cứu Thế Giê-xu đã chống lại cám dỗ! Khi ma quỉ chỉ cho Ngài các nước thế gian và hứa dâng cho Ngài mọi vinh quang các nước đó nếu Ngài theo nó thay vì theo Đức Chúa Trời thì Chúa chúng ta đã phán, “Hỡi quỉ Sa-tan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi” (Ma-thi-ơ 4:10). Chúa Giê-xu đã hoàn toàn đắc thắng Kẻ cám dỗ để bày tỏ cho mọi người thuộc các thế hệ hậu lai bản chất vô tội của Ngài. Chúa Giê-xu chính là chiến thắng của chúng ta!
Với bản chất sa ngã và bao nhiêu yếu đuối trong cuộc sống, chúng ta đã chứng tỏ mình là con cái thật của A-đam, đã bước theo đúng từng bước chân A-đam. Có thể chúng ta không đồng ý với chọn lựa của A-đam nhưng chúng ta vẫn bắt chước A-đam! Không có ngày nào chúng ta không phải đối diện với cùng thử thách đặt trước A-đam. Không ngày nào chúng ta không có cơ hội chọn lựa giữa những lời hứa quỉ quyệt của ma quỉ và những lời chắc chắn của Đức Chúa Trời. Chúng ta mong sẽ có ngày các nỗi thất vọng, bệnh tật và sự chết biến mất, nhưng giấc mơ này không có cơ hội nào thành sự thật được chừng nào chúng ta còn là con cháu chưa được tân sinh của A-đam. Phải có cách giải quyết tội lỗi và trong những chương trước chúng ta đã thấy Đức Chúa Trời đã có hành động đối với vấn đề căn bản này của nhân loại.
Từ khởi đầu thời gian cho đến ngày nay, công cuộc tìm kiếm quyền lực đầy tinh thần vô đạo của con người, quyết tâm sử dụng quyền tự do cho những mục tiêu vị kỷ đã đưa con người đến bờ hủy hoại. Tất cả những đống đổ nát hoang tàn của bao nhiêu nền văn minh nằm rải rác khắp mặt địa cầu, là chứng nhân thầm lặng cho sự kiện con người không có khả năng tạo lập một thế giới trường tồn không có Đức Chúa Trời. Những đổ nát mới, những đau thương mới xuất hiện thêm mỗi ngày, nhưng con người vẫn tiếp tục lao vào con đường hủy hoại.
Trong lúc đó, Đức Chúa Trời với sự khôn ngoan và lòng thương xót vô tận vẫn tiếp tục dõi theo loài người, tiếp tục chờ đợi với lòng kiên trì và cảm thương không ai có thể hiểu. Ngài chờ để ban sự cứu rỗi và bình an cho những người đến kêu xin ơn thương xót. Hai con đường Đức Chúa Trời đặt trước A-đam, cũng được đặt trước mỗi chúng ta, và ngày nay chúng ta vẫn được tự do lựa chọn. Chúng ta đang sống trong thời đại ân sủng khi Đức Chúa Trời vẫn giữ lại sự trừng phạt đời đời mỗi chúng ta đáng phải chịu.
Chính sự hiện diện của tội lỗi làm con người không có hạnh phúc thật. Chính tội lỗi khiến con người không thể đạt được thế giới đại đồng từng mơ ước. Mỗi kế hoạch, mỗi nền văn minh con người xây dựng đến cuối cùng đều thất bại và rơi vào quên lãng vì mọi công trình con người làm đều không thực hiện trong sự công chính. Những đổ nát xung quanh chúng ta vào chính giây phút này là chứng nhân cho tội lỗi đang ngập tràn thế giới.
Nguyên Nhân Và Hậu Quả
Con người dường như đã không còn thấy luật nhân quả thường hữu vẫn đang vận hành ở mọi cấp độ trong vũ trụ. Hậu quả thì khá hiển nhiên, nhưng nguyên nhân sâu xa, bao trùm thì dường như kém rõ ràng hơn, có lẽ vì những tác hại của triết lý hiện đại về “tiến bộ” đã làm nhãn quan nhân loại không còn tinh tường nữa. Có lẽ vì con người quá say mê cái lý thuyết nhân tạo, ngu dại này nên đã bám chặt lấy niềm tin tưởng rằng nhân loại đang tiến chậm nhưng chắc đến đỉnh cao hoàn thiện.
Nhiều triết gia lại còn lập luận rằng thảm kịch hiện đại của thế giới bất quá chỉ là một biến cố trong bước tiến đi lên khi nêu ra rằng trong lịch sử nhân loại cũng đã từng có những thời kỳ u tối vô vọng như vậy. Họ cũng bảo rằng những điều kiện đáng buồn của thời đại chúng ta đang sống chẳng qua chỉ là cơn đau lúc lâm bồn báo hiệu một ngày tươi sáng! Rằng nhân loại đang chập chững đi trong vườn trẻ mà chặng đường nên người hiểu biết, trưởng thành vẫn còn hàng bao nhiêu thế kỷ nữa!
Nhưng Kinh Thánh đã làm sáng tỏ điều khoa học tự nhiên dường như không muốn nhìn nhận đó là thiên nhiên bày tỏ cả về Đấng Tạo Hóa lẫn kẻ phá hoại. Con người đổ lỗi cho Đấng Tạo Hóa về việc làm của kẻ phá hoại. Con người quên rằng thế giới chúng ta hiện đang sống không còn giống như thế giới Đức Chúa Trời tạo dựng. Đức Chúa Trời sáng tạo thế giới toàn hảo nhưng tội lỗi đã làm hư hỏng. Đức Chúa Trời tạo dựng con người trong trắng, nhưng tội lỗi xâm nhập khiến con người trở thành ích kỷ. Mọi biểu hiện của điều ác đều là hậu quả của nguyên tội căn bản không thay đổi từ khi nó xâm nhập nhân loại. Nó có thể biểu lộ khác nhau nhưng về căn bản nó vẫn là cái khiến cho một người Phi châu man rợ với cây giáo trong tay rình rập nạn nhân bên lối mòn, cũng như khiến cho viên phi công học thức lái phản lực cơ bay ngang cùng khu rừng đó bất ngờ thả bom xuống ngôi làng.
Hai con người trên có lẽ cách xa nhau hàng thế kỷ văn hóa. Một đàng “tiến bộ” hơn, có mọi ưu thế của một nền văn minh nhân tạo, trong khi người kia vẫn còn ở tình trạng bán khai. Nhưng có thật sự họ khác nhau không? Không phải cả hai đều bị thôi thúc bởi nỗi sợ hãi và nghi ngờ người khác sao? Không phải cả hai đều hành động theo tư kỷ, nhất định đạt mục tiêu riêng bằng mọi giá? Quả bom có ít man rợ hơn, ít độc ác hơn mũi giáo trần không? Hay quả bom có vẻ “văn minh” hơn? Chúng ta có hy vọng tìm ra giải pháp cho những nan đề của nhân loại trong khi cả những người “sơ khai” nhất lẫn những người “tiến bộ” nhất đều chỉ muốn chém giết hơn là yêu thương hay không? Tất cả những chuyện đau buồn, cay đắng, bạo động, thảm kịch, đau thương, hổ nhục trong lịch sử con người đều được tóm tắt trong một chữ – tội lỗi. Ngày nay, phản ứng thông thường nhất khi tội ác được chỉ đích danh là người ta sẽ vênh mặt lên bảo, “Thì đã sao?” Thật ra con người đã cố ý làm cho tội lỗi trở thành phổ thông và đáng yêu! Những chương trình truyền hình nổi tiếng trên đất nước này rất quan tâm đến những thành phần giàu có, suy đồi. Tạp chí thì cổ võ cho những chuyện vô luân, đồi bại, bệnh hoạn. Tội lỗi ở trong con người. Tội ở trong “tôi.”
Con người không muốn bị gọi là tội nhân dù chính cha mẹ, ông bà của họ cũng đã là tội nhân từ trước! Dầu vậy Kinh Thánh tuyên bố, “Không phân biệt gì hết, mọi người đều đã phạm tội, không còn phản chiếu vinh quang Thượng Đế” (Rô-ma 3:22-23). Kinh Thánh tuyên bố rằng mỗi con người trên trần gian đều là tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời; mỗi khi tôi nghe có ai muốn luồn lọt, tránh né lời tuyên bố mạnh mẽ trên tôi nhớ lại câu chuyện một chấp sự đến nói với mục sư về vấn đề tội lỗi.
Ông bảo, “Thưa mục sư, hội thánh chúng tôi xin mục sư đừng nói quá nhiều và quá thẳng về tội lỗi. Chúng tôi ngại rằng con cái chúng tôi nếu phải nghe ông giảng quá nhiều về đề tài đó, chúng sẽ rất dễ trở thành tội nhân. Chúng tôi đề nghị ông chỉ nên gọi đó là những “sai sót” hay bảo rằng thanh niên của chúng ta có lỗi “phán đoán dở” chứ xin đừng nói quá mạnh đến chuyện phạm tội.”
Ông mục sư bước tới, lấy xuống một lọ thuốc độc để ở ngăn cao nhất trên kệ. Lọ thuốc dán nhãn đỏ thật to: “Thuốc Độc”. Đưa cho viên chấp sự xem, ông hỏi, “Ông muốn tôi làm gì? Ông có muốn tôi lột bỏ cái nhãn này rồi thay vào bằng một nhãn khác đề “Thuốc Bạc Hà” không? Ông không thấy là dán nhãn nhẹ hơn sẽ làm lọ thuốc độc này càng nguy hiểm hơn sao?”
Tội lỗi – cái tội muôn đời, cố cựu ngày xưa đã khiến A-đam thất bại chính là cái làm chúng ta ngày nay đau khổ. Nó sẽ gây tổn hại nặng nề hơn nếu chúng ta dán cho nó cái nhãn đẹp đẽ, hấp dẫn hơn. Chúng ta không cần từ mới để chỉ tội lỗi. Điều cần là tìm hiểu xem từ ngữ đã dùng mang ý nghĩa nào bởi vì dù ngày nay tội lỗi lan tràn khắp thế giới, trở thành phổ thông và đầy quyến rũ, nhưng vô số người vẫn không thực sự hiểu được ý nghĩa đích thật của tội lỗi là gì. Chính quan điểm thiển cận, sai lạc về tội lỗi đã cản trở nhiều người đến với Chúa. Cũng chỉ vì thiếu sự hiểu biết tận tường về tội lỗi mà nhiều Cơ đốc nhân đã không thể sống cuộc đời cơ đốc chân thật.
Một bài tâm linh ca cổ điển của người da đen có câu, “Mọi người nói về thiên đàng mà không đến thiên đàng,” điều này cũng rất đúng đối với tội lỗi. Mọi người nói về tội lỗi nhưng không có một nhận thức rõ ràng tội lỗi là gì vì vậy điều tối quan trọng là làm sao chúng ta thấy thật rõ, thật rành rọt về quan điểm của Đức Chúa Trời về tội lỗi.
Có thể chúng ta cố gắng coi nhẹ tội lỗi, cho là “những yếu đuối của con người.” Chúng ta cũng có thể coi đó là chuyện vặt, nhưng Đức Chúa Trời gọi đó là một thảm kịch. Chúng ta làm cho tội lỗi có vẻ là những tai nạn, nhưng Đức Chúa Trời coi đó là cả một sự ghê tởm. Con người tìm cách chữa tội nhưng Đức Chúa Trời công bố tội lỗi để có thể cứu con người khỏi tội. Tội lỗi không phải là đồ chơi để mua vui nhưng là một nỗi kinh hoàng phải tránh né! Vì vậy chúng ta cần học hỏi xem tội lỗi là gì trong cái nhìn của Đức Chúa Trời!
Tiến sĩ Richard Beal cho chúng ta năm từ chỉ tội lỗi.
Thứ nhất: tội lỗi là vô luật pháp, vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời (I Giăng 3:4). Đức Chúa Trời thiết định biên giới giữa thiện lành và gian ác, và mỗi khi chúng ta vượt qua giới hạn, mỗi khi xâm phạm vùng cấm địa của tội lỗi, chúng ta can phạm luật Chúa. Mỗi khi không sống theo muời giới răn, mỗi khi đi trái với những nguyên tắc trong bài giảng trên núi, chúng ta phạm luật Chúa và phạm tội.
Nếu nhìn vào từng điều trong Mười giới răn, bạn sẽ thấy ngày nay con người không chỉ cố ý phạm mà còn thích thú ca ngợi việc sai phạm! Từ tội thờ thần tượng, tức là đặt bất cứ điều gì trên Đức Chúa Trời, cho đến việc nhớ và biệt thánh ngày nghỉ (nếu tín hữu đồng loạt không xem thì các trận đấu bóng bầu dục và dã cầu vào những ngày Chúa Nhật sẽ ra sao?) đến việc hiếu kinh cha mẹ (có những quyển sách như Mommie Dearest phơi bầy tội lỗi cha mẹ), đến tội tham lam, tội tà dâm, chúng ta thấy dường như người ta bảo nhau đồng loạt cố ý phạm tất cả các giới răn của Đức Chúa Trời. Không những thế, dường như người ta còn cố ý làm cho việc phạm giới răn trở thành thích thú, hấp dẫn!
Thánh Gia-cơ vạch rõ rằng tất cả chúng ta đều mắc tội, ông viết, “Nhưng mỗi người bị cám dỗ khi mắc tư dục xui giục mình. Đoạn lòng tư dục cưu mang, sinh ra tội ác; tội ác đã trọn sinh ra sự chết” (Gia-cơ 1:14,15). Đó là vì tất cả chúng ta đều phạm luật Chúa, tất cả đều phạm giới răn khiến chúng ta đều trở thành tội nhân.
Thứ hai: Kinh thánh mô tả tội lỗi là sự độc ác, bất công (iniquity). Bất công là đi lệch khỏi điều phải dù hành vi đó có bị cấm đoán minh thị hay không. Sự độc ác, bất công liên quan đến những động cơ sâu kín bên trong là những điều chúng ta thường cố giấu khỏi con mắt loài người cũng như Đức Chúa Trời. Chúng là những sai trật xuất phát từ bản chất sa ngã hư hoại, hơn là từ những hành vi gian ác dưới áp lực của hoàn cảnh khiến chúng ta phạm tội.
Chúa Giê xu mô tả bản chất hư hoại bên trong này như sau, “Vì thật là tự trong, tự lòng người mà ra những ác tưởng, sự dâm dục, trộm cướp, giết người, tà dâm, tham lam, hung ác, gian dối, hoang đàng, con mắt ganh đố, lộng ngôn, kiêu ngạo, điên cuồng. Hết thảy những điều xấu ấy ra từ trong lòng thì làm cho dơ dáy người” (Mác 7: 21-23).
Thứ ba: Kinh thánh định nghĩa tội lỗi là không trúng đích, không đạt được mục tiêu đề ra. Mục tiêu của Đức Chúa Trời là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Đối tượng và mục đích cuối cùng của mọi cuộc đời là sống theo tiêu chuẩn đời sống Chúa Cứu Thế. Ngài đến để chỉ cho chúng ta điều con người có thể thành đạt trên đất, và khi không theo nổi gương Chúa, chúng ta sai mục tiêu, hụt mất tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời.
Thứ tư: tội lỗi là một hình thức vi phạm. Đó là theo ý riêng xâm phạm vào lãnh vực thẩm quyền của Đức Chúa Trời. Tội lỗi không chỉ có khía cạnh tiêu cực, không chỉ là thiếu lòng yêu mến Đức Chúa Trời . Tội lỗi là một sự lựa chọn tích cực, ưa thích bản ngã hơn Đức Chúa Trời. Đó là tập trung tình yêu vào chính mình thay vì đem cả tấm lòng dâng lên yêu mến Đức Chúa Trời. Chủ trương duy ngã và ích kỷ là những dấu hiệu rõ ràng của tội lỗi y như trộm đạo và giết người. Có lẽ đây lại chính là hình thức tội lỗi quỉ quyệt và tàn hại nhất của tội lỗi, vì chính trong hình thức tội lỗi này người ta dễ bỏ qua không thấy cái nhãn trên chai thuốc độc. Những người bám chặt lấy chính mình, tập trung mọi quan tâm, chú ý vào chính mình, những người chỉ lưu tâm đến những điều mình thích và chỉ tranh đấu, bảo quyền lợi riêng, thì đây là những tội nhân không thua gì những kẻ say sưa và phường đĩ điếm.
Chúa Giê-xu phán: “Nếu một người được cả thiên hạ mà mất linh hồn thì có ích gì?” (Mác 8:36). Chúng ta có thể dùng ngôn ngữ hiện đại để diễn đạt như sau: “Nếu một người xây dựng được cả một nền kỹ nghệ khổng lồ mà bị bệnh ung loét bao tử, không được vui hưởng lạc thú cuộc đời thì có ích gì? Nếu một nhà độc tài chinh phục được nửa địa cầu mà phải trường kỳ sợ hãi viên đạn báo thù hay lưỡi dao thích khách thì có ích gì? Nếu một bậc cha mẹ nuôi con bằng sự khắc nghiệt, áp chế để khi lớn nó bỏ mặc cha mẹ trong cô đơn của tuổi già thì có ích gì?” Hiển nhiên tội yêu bản ngã là một tội chết người.
Thứ năm: tội lỗi là vô tín. Vô tín là tội vì nó xúc phạm tính chân thật của Đức Chúa Trời. “Ai tin Con Đức Chúa Trời thì có chứng ấy trong mình; còn ai không tin Đức Chúa Trời, thì cho Ngài là nói dối, vì chẳng tin đến chứng Đức Chúa Trời đã làm về Con Ngài” (I Giăng 5:10).
Chính lòng vô tín đóng cửa thiên đàng và mở toang cửa địa ngục. Chính lòng vô tín loại bỏ Lời Đức Chúa Trời và phủ nhận Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế. Chính lòng vô tín đã khiến con người bịt tai không nghe tin lành và phủ nhận phép lạ của Chúa.
Tội lỗi đưa đến án chết và không ai có khả năng tự cứu khỏi án phạt tội lỗi hoặc tẩy sạch chính tấm lòng hư hoại của mình. Cả thiên sứ lẫn con người không thể chuộc tội. Chỉ trong Chúa Cứu Thế mới có phương thuốc chữa bịnh tội lỗi. Chỉ duy Chúa Cứu Thế mới cứu được tội nhân khỏi số phận đời đời đang chờ đón như Kinh Thánh khẳng định, “Tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô-ma 6:23); “Linh hồn nào phạm tội sẽ chết” (Ê-xê-chi-ên 18:4); “Chẳng có người nào chuộc được anh em mình , hoặc đóng giá chuộc người nơi Đức Chúa Trời” (Thi-thiên 49:7); “Hoặc bạc hoặc vàng của chúng nó, đều không có thể giải cứu chúng nó trong ngày thạnh nộ của Chúa Hằng Hữu…” (Sô-phô-ni 1:18).
Phương Thuốc Duy Nhất
Phương thuốc duy nhất cứu rỗi con người ra khỏi tội lỗi tìm thấy trên một ngọn đồi trọc hoang vu hình sọ, một tên trộm treo thân trên cây thập tự, cây bên kia treo một kẻ sát nhân, chính giữa là Con Người đội mão gai. Máu từ tay, chân Ngài chảy ra. Máu tuôn ra từ vết giáo bên sườn, máu từ những lỗ gai đâm trên đầu trên trán Ngài tuơm đầy mặt, trong khi đám đông bên dưới dửng dưng đứng nhìn chế diễu, nhạo cười.
Con người chịu cực hình này là ai, con người bị săn đuổi, hạ nhục và giết hại này là ai? Ngài là Con Thượng Đế, là Chúa Bình An, là Sứ Giả của thiên đàng cho trần gian ô tội. Ngài là Đấng các thiên thần phủ phục tôn thờ, che mặt không dám nhìn lên, thế mà Ngài đã bị chối bỏ, bị treo thân, đổ máu trên thập tự kia! Điều gì đã đưa Ngài đến chỗ kinh khủng này? Ai đã khiến cho Đấng đến dạy chúng ta bài học yêu thương phải chịu những cực hình kia? Cả tôi và bạn đều là thủ phạm, vì đó là do tội lỗi của bạn cũng như tội lỗi của tôi mà Chúa Giê-xu bị đóng đinh vào thập giá. Trong chính giấy phút bất tử này nhân loại vươn tới những kinh nghiệm đen tối nhất của tội lỗi, chìm xuống những vực thẳm sâu hơn hết, đụng đến những giới hạn gian ác nhất, chẳng trách được chính vì thế mà cả đến mặt trời cũng phải che mặt lại! Như Charles Wesley đã viết:
“Tôi được hưởng gì trong huyết Chúa Cứu Thế? Ngài đã chết vì tôi, nhưng ai đã làm Ngài đau đớn… Oi tình yêu kỳ diệu! Làm sao Đức Chúa Trời lại có thể chịu chết vì tôi?
Nhưng tội lỗi đã bị đánh bại trên thập tự giá. Sự bất công ghê tởm của con người khiến Chúa Cứu Thế bị đóng đinh đã trở thành phương tiện mở đường cho con người được giải phóng. Kiệt tác của tội lỗi về ô nhục và hận thù đã trở thành kiệt tác của Đức Chúa Trời về lòng thương xót và tha thứ. Qua sự chết của Chúa Cứu Thế trên thập tự giá, chính tội lỗi của những người tin Ngài đã bị đóng đinh vào đó. Trên thập tự giá, tội lỗi đã bị chinh phục, sự chết của Chúa Cứu Thế trở thành nền tảng của hy vọng, thành lời hứa chiến thắng của chúng ta! Trên cây gỗ Chúa Cứu Thế đã mang trên chính thân thể Ngài mọi tội ác vốn xiềng xích chúng ta. Ngài đã chết cho chúng ta và sống lại. Ngài đã minh chứng rằng mọi lời hứa của Đức Chúa Trời cho con người là chân thật cho nên nếu bạn tiếp nhận Chúa Cứu ThếGiê-xu hôm nay bằng đức tin, mọi tội lỗi bạn cũng sẽ được tha thứ. Bạn có thể biết chắc chắn rằng qua tình thương của Chúa Cứu Thế Giê-xu, linh hồn bạn được tẩy sạch và được cứu khỏi án phạt tội lỗi.

Đọc Sách: (04) Peace With God _ Bình An Với Chúa – Đức Chúa Trời Như Thế Nào? (Tác giả : Billy Graham _ Chuyển ngữ: Hà Huy Việt)

CHƯƠNG 3

Đức Chúa Trời Như Thế Nào?
 “Nếu ông dò xét có thể biết được sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời, và thấu rõ Đấng Toàn năng sao?”.(Gióp 11:7)

Gióp 11:7Bản Dịch 2011 (BD2011)

7  Anh có thể dò ra những gì sâu nhiệm về Ðức Chúa Trời chăng? Anh có thể biết đến cùng tột những gì về Ðức Chúa Trời ư?
Image result for Peace With God

Đức Chúa Trời là ai? Ngài như thế nào? Làm thế nào chúng ta biết Ngài hiện hữu? Ngài có từ bao giờ? Chúng ta có thể biết Ngài không?Mọi người đều hỏi hay tự hỏi những câu này vì chúng ta không thể nào nhìn thế giới xung quanh mà không kinh ngạc về công trình sáng tạo.
Hàng ngày chúng ta đối diện với phép lạ trong sự sống và cái bí hiểm trong sự chết, vẻ rực rỡ huy hoàng của thảo mộc, cỏ hoa, vẻ vinh quang của bầu trời đêm đầy sao, cái vĩ đại của núi non, biển cả. Ai đã tạo dựng nên tất cả những thứ này? Ai đã nghĩ ra luật về dẫn lực để nối kết ràng buộc mọi vật đúng vị trí riêng? Ai đã qui định ngày đêm và điều khiển sự chuyển đổi các mùa? Còn về tính vô hạn của vũ trụ thì sao? Chúng ta có thành thật tin như điều có người đã viết, “Phải chăng tất cả vũ trụ trong quá khứ, hiện tại hay tương lai chỉ có thế này?”Giải đáp khả dĩ duy nhất là tất cả những điều này và nhiều điều khác nữa là công việc của một Thượng Đế Tối Cao. Như chiếc đồng hồ phải có người vẽ kiểu thì vũ trụ với cơ chế chính xác như thế cũng phải có một Đấng Thiết Kế Vĩ Đại. Chúng ta gọi Ngài là Đức Chúa Trời hay là Ông Trời. Toàn thể nhân loại quen thuộc danh Ngài. Ngay từ thơ ấu, chúng ta đã nói đến danh Ngài. Kinh thánh công bố rằng Đức Chúa Trời chúng ta nói, chúng ta hát về Ngài là Đức Chúa Trời “đầy ân phúc” chính là Đấng đã sáng tạo thế giới và đặt để chúng ta trong đó. Công cuộc thám hiểm không gian của chúng ta sẽ không thể thực hiện được trong một vũ trụ không vận hành theo qui luật của Đức Chúa Trời.
Một người khôn ngoan không kém ai là Benjamin Franklin đã nói, “Tôi là người sống lâu và càng sống lâu tôi càng thấy có nhiều bằng chứng đầy thuyết phục rằng Đức Chúa Trời là Đấng điều khiển công việc của loài người”. Một người khôn ngoan khác là Blaise Pascal đã viết: “Nếu một người không được tạo dựng cho Đức Chúa Trời thì tại sao người chỉ có hạnh phúc trong Ngài? Nếu một người được tạo dựng cho Đức Chúa Trời thì tại sao người chống lại Đức Chúa Trời?” Đây là tình huống bế tắc của chúng ta.
Nhưng bạn hỏi, “Ngài là Ai? Ngài ở đâu?” Chúng ta biết Ngài hiện hữu, chúng ta kêu van Ngài – kêu Trời – trong những giây phút khó khăn thử thách cam go nhất. Có người luôn luôn suy tưởng về Ngài mọi lúc, mọi nơi. Nhưng có người lại bảo rằng họ không tin Ngài hiện hữu, trong khi những người khác bảo, “Hãy giải thích Thượng Đế cho tôi may ra có thể tôi sẽ tiếp nhận Ngài.”
Vào thời điểm quyết định này trong lịch sử thế giới, đối với những người tự hỏi, “Đức Chúa Trời như thế nào?” chỉ có một câu trả lời đơn giản: Đức Chúa Trời giống như Chúa Cứu Thế Giê-xu. Như Chúa Giê-xu đã đến để khiến hình ảnh Đức Chúa Trời trở nên rõ ràng cho nhân loại và trở thành Đấng Cứu Chuộc chúng ta, thì khi trở về thiên đàng, Ngài đã ban Đức Thánh Linh xuống cư trú trong tín hữu giúp họ có thể sống cuộc đời làm nổi bật hình ảnh Chúa Cứu Thế cho một trần gian vô tín.
Nếu bạn muốn biết Đức Chúa Trời như thế nào, nếu bao nhiêu năm qua trong cuộc đời bạn đã nghe về Đức Chúa Trời và nói về Ngài, nhưng vẫn còn chờ phải có người giải thích rồi mới đặt đức tin nơi Ngài thì bây giờ chúng ta xem thử Kinh Thánh có những mô tả cụ thể như thế nào về Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời Như Thế Nào?
Vào thời điểm quyết định này trong lịch sử thế giới mọi người cần phải tìm giải đáp cho câu hỏi, “Đức Chúa Trời như thế nào?” Ai cũng cần phải hỏi và cùng đều cần biết rõ câu trả lời. Mỗi người cần biết thật chính xác không chút hoài nghi Đức Chúa Trời là ai và Ngài có thể làm được những gì vì Thánh kinh khẳng định rằng “điều chi có thể biết về Đức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi” (Rô-ma 1:19).
Chính vì thiếu kiến thức này về Đức Chúa Trời và sự kiện con người từ chối vâng lời Ngài mà con người không sao giải tỏa được bao nhiêu nan đề đeo đẳng. Chính vì con người không hiểu chương trình của Đức Chúa Trời mà thế giới rơi vào hỗn loạn. Chính vì con người không muốn biết và không muốn tuân giữ các qui luật của Đức Chúa Trời mà linh hồn chồng chất bao nhiêu gánh nặng. Vì vậy chúng ta hãy nỗ lực hết sức học biết về Ngài.
Chúng ta sẽ tìm những tri thức này ở đâu? Ai trong chúng ta sẽ chỉ dạy chúng ta chân lý? Không phải tất cả chúng ta ở đây đều là những vật thọ tạo hữu hạn sao? Đức Chúa Trời có dự liệu một người nào trên đất có đầy đủ thẩm quyền tối hậu để nói về Ngài? Câu trả lời là không, và người duy nhất Đức Chúa Trời giao phó trách nhiệm đó sống cách đây hai nghìn năm thì chúng ta đã đóng đinh trên thập tự giá! Như vậy bây giờ làm sao chúng ta có thể biết Đức Chúa Trời?
Chúng ta có thể hỏi các học giả uyên bác, họ sẽ cho biết Đức Chúa Trời là diễn đạt của mọi điều trong thiên nhiên và cuộc sống, rằng mọi hữu thể sống đều là một với Ngài, rằng chính sự sống cũng là một thể hiện của Hữu Thể Thiên Thượng. Họ sẽ cho biết bạn có thể thấy Đức Chúa Trời trong một giọt nước nhỏ nhất cũng như trong vòm trời bao la mênh mông trên cao.
Hỏi một triết gia, ông ta sẽ cho bạn biết rằng Đức Chúa Trời là một quyền lực nguyên thủy bất biến đàng sau toàn thể công trình sáng tạo, rằng Ngài là Động Lực Chính, là Đấng duy trì chuyển động của tất cả vũ trụ, rằng Ngài là Quyền Lực vô thủy vô chung. Triết gia sẽ bảo rằng mỗi mẩu sự sống và vẻ đẹp chúng ta thấy là thể hiện của quyền lực này lưu chảy không ngừng từ Động Lực Chính rồi quay lại đó.
Tiếp tục hỏi nữa, người ta sẽ cho bạn biết rằng Đức Chúa Trời là tuyệt đối và Ngài là Tất Cả trong Tất Cả, và không ai có thể biết gì thêm về Ngài. Có nhiều định nghĩa về Đức Chúa Trời. Tiến sĩ Akbar Haqq bảo rằng nguyên thủy mọi người đều theo quan điểm độc thần về Thượng Đế. Mỗi quốc gia, mỗi chủng tộc, mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều cố gắng giải thích Hữu Thể Vĩ Đại đàng sau vũ trụ bao la này. Con người ở mọi thời đại đã cố gắng khám phá Đấng Tạo Hóa, tác giả của bao công trình họ đã thấy, nhưng lại không biết Ngài. Trong những lời giải thích trên về Đức Chúa Trời, điều nào đúng nhất? Những lý thuyết nào có thể chấp nhận? Trong số những thẩm quyền tự tạo trên, cái nào có thể hướng dẫn chúng ta?
Như đã thấy trong chương trước, Đức Chúa Trời đã tự bày tỏ chính Ngài trong một cuốn sách gọi là Kinh Thánh. Trong Kinh Thánh chúng ta có mạc khải về Chúa và dựa trên mạc khải đó, tâm trí chúng ta thỏa mãn và lòng chúng ta ấm áp. Chúng ta an tâm biết chắc có câu trả lời đúng, và rằng chúng ta đang trên hành trình hiểu biết bản chất thật của Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài trong hàng trăm cách khác nhau trong Kinh Thánh và nếu chúng ta đọc Kinh Thánh cẩn trọng và đều đặn như đọc nhật báo, chúng ta sẽ quen và biết Đức Chúa Trời như chúng ta biết rõ các cầu thủ chúng ta có cảm tình!
Như viên kim cương có nhiều mặt thì mạc khải về Đức Chúa Trời cũng có vô số khía cạnh không thể nào trình bày hết được, vì vậy trong phạm vi giới hạn của chương này, chúng ta sẽ nói về bốn phương diện mạc khải có phần quan trọng nhất về Đức Chúa Trời, đó cũng là những khía cạnh chúng ta cần ghi nhớ luôn luôn.

“Đức Chúa Trời là Thần Linh”

Trước hết, Kinh Thánh công bố Đức Chúa Trời là Thần Linh. Khi nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri bên giếng Si kha, Chúa Giê-xu đã xác định điều này: “Đức Chúa Trời là thần linh” (Giăng 4:24).
Bạn nghĩ gì khi nghe từ ngữ thần linh? Tâm trí bạn gợi ra hình ảnh nào? Bạn có nghĩ về thần linh giống như một làn sương khói bay nhẹ lên trời? Thần linh có phải là cái làm trẻ con sợ trong dịp hội ma quái Halloween mỗi cuối tháng mười? Hay đối với bạn, thần linh chỉ là cái trống rỗng không hình không dáng? Bạn có nghĩ rằng đó là điều Chúa Giê-xu hàm ý khi Ngài bảo “Đức Chúa Trời là Thần Linh”?
Để khám phá “thần linh” thực sự là gì và Chúa Giê-xu muốn nói đến điều gì khi Ngài dùng từ ngữ đặc biệt này, chúng ta lại phải trở về với Kinh Thánh tới chỗ mô tả sau khi phục sinh, Chúa đã nói, “Hãy rờ đến ta và hãy xem, thần thì không có thịt xương, mà các ngươi thấy ta có” (Lu-ca 24:39). Vì vậy, chúng ta biết chắc rằng thần linh không có thân xác. Thần linh đối ngược với thân xác, nhưng vẫn là một hữu thể có quyền năng. Đây là điều rất khó hiểu vì chúng ta đang cố hiểu bằng tâm trí hữu hạn của loài người.
Vì loài người đã bị truất bỏ nhãn quan vô hạn Đức Chúa Trời từ nguyên thủy định ban cho nên chúng ta không thể hiểu sự vinh quang và vĩ đại của Thần Linh hiện hữu quá xa bên ngoài chúng ta. Khi nghe nói đến từ ngữ “thần linh”, chúng ta lập tức cố giảm bớt, hạ thấp từ ngữ đó xuống cho ngang bằng với kích thước nhỏ bé của chúng ta, cho vừa với phạm vi hạn hẹp của tâm trí chúng ta. Giống như nỗ lực giải thích cái hùng vĩ, bao la, mênh mông của đại dương cho một người chưa bao giờ thấy một hồ nước lớn hơn cái vũng trâu đầm. Làm sao người đó có thể hình dung được đại dương vô tận? Làm sao người đó khi nhìn vào cái ao tù nước đọng kia, có thể hiểu được những chiều sâu vô biên, sự sống bí mật, sức mạnh sôi trào, những chuyển động không ngừng với cái tàn bạo ghê gớm của cơn bão biển hay cái vẻ đẹp tráng lệ tuyệt vời khi biển lặng? Làm thế nào một người suốt đời chỉ thấy vũng bùn có thể hiểu được bạn đang nói gì? Bạn sẽ dùng những ngôn từ nào để mô tả đại dương hùng vĩ cho người đó hiểu? Làm sao bạn có thể thuyết phục người đó tin rằng những đại dương kỳ diệu đó thực sự hiện hữu?
Đối với chúng ta, để hiểu đúng điều Chúa nói “Đức Chúa Trời là Thần Linh” còn khó khăn hơn vô cùng. Chúa Giê-xu thì khác. Ngài biết hết. Tâm trí Ngài không
bị giới hạn như tâm trí chúng ta. Mắt Ngài không nhìn vào vũng bùn của đời sống, nhưng biết hết mọi biên cương vô hạn của Thần Linh, và Ngài đến để nỗ lực giúp chúng ta hiểu phần nào cái kỳ diệu, êm dịu và bình an Thần Linh đem lại.
Chúng ta biết chắc rằng thần linh không bị giới hạn trong thân xác, cũng không hao mòn, già cỗi hoặc đổi thay như thân xác. Kinh Thánh công bố rằng Đức Chúa Trời là Thần Linh, nghĩa là Ngài không bị giới hạn trong thân xác, không bị giới hạn vào vóc dáng, không bị giới hạn vào một biên cương nào; không ai có thể đo lường được Ngài, cũng không con mắt trần nào có thể thấy Ngài. Kinh Thánh cho biết vì Ngài vô hạn như thế cho nên Ngài cùng một lúc có thể ở khắp mọi nơi, Ngài nghe tất cả, thấy tất cả và biết tất cả.
Vì không có những khả năng đó cho nên chúng ta có khuynh hướng giới hạn Ngài trong cái hạn hẹp của chúng ta. Chúng ta cố phủ nhận quyền năng của Đức Chúa Trời đối với những việc chúng ta không thể làm. Vì không thể cùng một lúc có mặt khắp nơi cho nên chúng ta cho rằng Đức Chúa Trời cũng như vậy. Chúng ta giống như một người nghe nói về đại dương rồi một ngày kia tìm đến được bên bờ biển, đi xuống vốc được ít nước trong tay, kêu lên rằng, “cuối cùng đại dương đã nằm trong lòng bàn tay ta, ta đã sở hữu đại dương mênh mông!” Vâng, anh ta có được một phần biển cả, nhưng cùng lúc đó, trên hàng ngàn các bãi biển khác, nhiều người khác cũng đang cúi xuống vốc nước trong tay bảo rằng mình đang sở hữu vài ba giọt nước biển. Hàng triệu người trên thế giới có thể đi xuống bãi biển làm như thế, hoặc mỗi người có thể lấy bao nhiêu nước biển cũng được, nhưng đại dương vẫn không hề thay đổi. Năng lực và sức mạnh của biển cả vẫn y nguyên, sự sống và những chỗ sâu không dò được vẫn như cũ, dù nó đã cung cấp nhu cầu cho tất cả mọi người đang đứng đưa tay trên khắp các bờ đại dương.
Đức Chúa Trời cũng như vậy. Ngài có mặt khắp nơi trong cùng một lúc, nghe những lời cầu nguyện của tất cả mọi người dâng lên trong danh Chúa Cứu Thế Giê-xu; Ngài cũng đồng thời làm bao nhiêu phép lạ quyền năng để giữ các vì tinh tú trong vị trí, làm cho cây cối đâm chồi nẩy lộc trên mặt địa cầu, trong khi tôm cá bơi lội trong biển cả. Đức Chúa Trời không bị một giới hạn nào và sự khôn ngoan của Ngài cũng thật hoàn hảo. Quyền năng Ngài không giới hạn, tình yêu và lòng thương xót của Ngài không có biên cương.
Nếu bạn đang từng cố gắng giới hạn Đức Chúa Trời, xin hãy dừng lại. Đừng cố giam hãm Ngài hay công trình của Ngài vào bất cứ nơi nào hay lãnh vực nào. Tất nhiên bạn không cố giới hạn biển cả. Bạn không thể giới hạn vũ trụ. Bạn không đủ liều lĩnh để thử thay đổi đường đi của mặt trăng hay giữ trái đất đừng quay quanh trục! Như vậy cố giới hạn Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo tất cả những kỳ quan đó còn muôn đời ngu dại đến đâu!
Tôi vô cùng biết ơn mẹ tôi về nhiều điều nhưng một trong những ơn phước lâu bền nhất cho cuộc sống là bà đã dạy tôi trong Phúc Âm Yếu Chỉ (Giáo Lý Căn Bản) năm tôi lên mười rằng “Đức Chúa Trời là Thần Linh, vô hạn, vĩnh hằng và bất biến trong sự hiện hữu, khôn ngoan, năng quyền, thánh khiết, công chính, thiện hảo và chân lý.” Định nghĩa đó về Đức Chúa Trời đã theo tôi suốt đời, và khi sâu kín trong lòng, một người biết rõ Đức Chúa Trời là Thần Linh vô hạn, vĩnh hằng và bất biến, người sẽ thắng được cám dỗ muốn giới hạn Ngài. Hiểu biết đó cũng giúp người vượt qua mọi ý tưởng nghi ngờ khả năng của Đức Chúa Trời đối với những việc chúng ta không làm nổi!
Một số nghi ngờ Kinh Thánh không phải là Lời chân thật của Đức Chúa Trời vì không muốn gán cho Ngài bất cứ điều gì chính họ không thể thành đạt. Nếu bạn có điều gì không chắc về sự linh cảm của Kinh Thánh, xin hãy lấy ra đọc lại, đọc trong tâm trạng của một người suốt đời chỉ biết chú mục vào cái ao tù mà lần đầu tiên trong đời được đứng trước đại dương mênh mông! Có lẽ bây gì bạn mới thoáng có cái nhìn đầu tiên về quyền năng vô hạn của Đức Chúa Trời. Có lẽ bây giờ bạn mới bắt đầu hiểu Đức Chúa Trời thực sự như thế nào, vì nếu Đức Chúa Trời là Thần Linh như Chúa Giê-xu công bố thì sẽ không có gì khó hiểu đối với sự quan phòng của Ngài, đối với quyền tối thượng của Ngài trong việc can thiệp vào cuộc sống con người, cũng không khó khăn gì đối với sự linh cảm con người viết nên Kinh Thánh. Một khi bạn hiểu Đức Chúa Trời là ai và Ngài như thế nào thì mọi suy tưởng ngổn ngang sẽ ổn định.
Đức Chúa Trời Là Một Ngôi Vị
Thứ hai: Kinh Thánh tiết lộ Đức Chúa Trời là một Ngôi Vị (nghĩa là có nhân cách, vị cách). Suốt cả Kinh Thánh chúng ta thấy “Đức Chúa Trời yêu thương,” “Đức Chúa Trời phán,” “Đức Chúa Trời làm.” Mọi điều chúng ta qui cho một người cũng được qui cho Đức Chúa Trời. Người là một cá thể biết cảm xúc, suy nghĩ, mong mỏi, ước muốn và có mọi cách thể hiện nhân cách. Sống trên đất chúng ta có khuynh hướng qui chiếu nhân cách cho thân xác. Trí óc hữu hạn của chúng ta không thấy được nhân cách không thể hiện ra trong xương thịt. Chúng ta biết rằng những nhân cách của chúng ta không luôn luôn bị gói ghém trong các xác thân chúng đang cư trú. Chúng ta biết rằng trong lúc chết, nhân cách chúng ta sẽ lìa thân xác để tiếp tục bước vào số phận dành cho chúng. Chúng ta đều biết rõ điều này, nhưng lại thấy khó chấp nhận.
Mạc khải quan trọng chúng ta cần có đó là nhận ra rằng nhân cách không nhất thiết phải được xác định với một hữu thể có thân xác. Đức Chúa Trời không ở trong thân xác nhưng Ngài vẫn là một Ngôi Vị. Ngài cảm xúc, suy tưởng, yêu thương, tha thứ. Ngài cảm thông với những nan đề và những phiền ưu chúng ta phải đương đầu.
Đức Chúa Trời Thánh Khiết và Công Chính
Thứ ba: Kinh Thánh cho biết Đức Chúa Trời không chỉ là Thần Linh và là một Ngôi Vị, nhưng Ngài còn là Đấng Thánh khiết và Công chính. Từ Sáng thế ký đến Khải huyền, Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài là Đức Chúa Trời Thánh khiết. Ngài là Đấng toàn hảo và tuyệt đối trong tất cả mọi khía cạnh. Ngài cũng là Đấng quá thánh khiết không thể dung chịu được con người tội lỗi, cũng như cuộc sống tội lỗi.
Chỉ cần thấy được bức tranh thật về sự công chính vô cùng uy nghi của Ngài, cuộc sống chúng ta trên bình diện cá nhân cũng như quốc gia sẽ khác xa biết bao nhiêu! Ước gì chúng ta nhận ra cái khoảng mênh mông chia cách con gười bất nghĩa với Đức Chúa Trời hoàn toàn công chính! Kinh Thánh công bố Ngài là Nguồn Sáng, trong Ngài không có một chút bóng tối nào, Ngài là Hữu Thể Tối Thượng không tì vết.
Đây cũng lại là một khái niệm rất khó đối với con người bất toàn. Chúng ta với bao nhiêu lầm lỗi và yếu đuối rất khó có thể tưởng tượng được sự thánh khiết vô cùng của Đức Chúa Trời như thế nào, tuy nhiên để có thể hiểu Kinh Thánh chúng ta cần phải nhận thức sự thánh khiết đó. Vực sâu ngăn cách giữa con người bất toàn với Đức Chúa Trời toàn hảo được nhấn mạnh qua suốt Kinh Thánh. Sự kiện này thể hiện qua việc phân cách giữa nơi thánh và nơi chí thánh trong Đền tạm Cựu Ước cũng như trong Đền thờ Tân Ước. Sự ngăn cách này được thể hiện qua qui định rằng khi một tội nhân muốn đến gần Đức Chúa Trời thì phải đem theo một của dâng. Chính hệ thống tư tế là trung gian giữa Đức Chúa Trời và con người cũng nhấn mạnh sự phân cách giữa Đức Chúa Trời thánh khiết với con người tội lỗi. Điều này cũng được nhấn mạnh trong các giới luật về sự tinh sạch trong sách Lê vi ký. Chúng ta cũng thấy sự phân cách đó trong các kỳ lễ Do Thái và sự cô lập của người Do Thái tại Palestine. Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời chi phối tất cả những nguyên tắc khác của Ngài.
Kinh Thánh công bố rằng ngôi Đức Chúa Trời được thiết lập trên nền tảng thánh khiết. Chính vì Ngài thánh khiết trong khi con người bất khiết mà có khoảng cách chia giữa Đức Chúa Trời với tội nhân không chịu ăn năn. Kinh thánh cho biết chính tội lỗi ngăn cách chúng ta với Đức Chúa Trời đến nỗi Ngài che mặt khỏi chúng ta và khi chúng ta kêu cầu Ngài không thèm nghe. Tác giả Thi thiên 66:18 viết rằng “Nếu lòng tôi có chú về tội ác, ắt Chúa chẳng nghe tôi”. Mặt khác, tác giả Thi-thiên cũng lại nói rằng, “Mắt Chúa Hằng hữu đoái xem người công bình, tai Ngài lắng nghe tiếng kêu cầu của họ…Chúa Hằng Hữu ở gần người mọi người cầu khẩn Ngài. Tức ở gần mọi người có lòng thành thực cầu khẩn Ngài. Ngài làm thỏa nguyện mọi người kính sợ Ngài; Cũng nghe tiếng kêu cầu của họ, và giải cứu cho” (Thi-thiên 34:15; 145:18,19).
Đức Chúa Trời quá trong sạch không thể chấp nhận điều ác, nghĩa là Ngài quá thánh khiết không thể dính dáng đến tội lỗi. Trước khi tội lỗi xâm nhập dòng giống loài người, Đức Chúa Trời và con người có mối tương giao thân thiết. Bây giờ thì mối tương giao đó đã gãy đổ từ lâu và ở ngoài Chúa Cứu Thế Giê-xu thì mọi giao tiếp giữa Đức Chúa Trời và con người hoàn toàn bị mất. Chỉ qua Chúa Giê-xu con người mới có thể tái thiết lập lại tương giao với Đức Chúa Trời. Có những người bảo rằng tất cả mọi con đường đều dẫn đến Đức Chúa Trời, nhưng Chúa Giê-xu tuyên bố, “Ta là con đường, chân lý và sự sống, không bởi ta thì không ai đến được cùng Cha” (Giăng 14:6). Ngài cũng phán rằng, “Ta là cái cửa: ai bởi ta mà vào sẽ được cứu rỗi; họ sẽ vào, ra và gặp đồng cỏ” (Giăng 10:9).
Người là tội nhân, hoàn toàn bất lực không thể thay đổi tình trạng của mình, không thể làm gì để tiếng kêu thấu đến tai thánh khiết của Đức Chúa Trời, trừ phi kêu cầu với lòng chân thành xin ơn thương xót. Loài người sẽ tiếp tục đời đời hư vong nếu Đức Chúa Trời không do lòng thương xót vô biên sai Con Ngài xuống trần gian lấp đầy hố ngăn cách đó.
Chính trong sự thánh khiết của Đức Chúa Trời mà chúng ta tìm ra lý do cái chết của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Chúa Giê-xu là con người duy nhất có đủ sự trọn lành, trong sạch, sức mạnh để mang lấy tội lỗi của toàn nhân loại. Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời đòi hỏi án phạt chính xác dành cho tội lỗi còn tình thương của Ngài đã ban Chúa Giê-xu để trả cho án phạt này, đem sự cứu chuộc cho nhân loại. Vì Đức Chúa Trời chúng ta tôn thờ là Đức Chúa Trời trong sạch, thánh khiết, công bình và công chính nên Ngài đã ban cho chúng ta Con độc sanh của Ngài để mở ra cho loài người con đường đến với Ngài. Nhưng nếu chúng ta làm ngơ đối với sự trợ giúp này, không vâng theo những luật lệ Ngài thiết định, chúng ta không thể kêu xin Ngài thương xót khi sự trừng phạt của Ngài giáng xuống.
“Đức Chúa Trời Là Tình Thương”
Thứ tư: Đức Chúa Trời là Tình Yêu. Cũng như với tất cả những thuộc tính khác của Đức Chúa Trời, nhiều người không đọc Kinh Thánh sẽ không hiểu được điều Kinh Thánh nói: “Đức Chúa Trời là tình yêu” (1 Giăng 4:8).
Chúng ta không luôn luôn hiểu rõ mình muốn nói gì khi dùng từ ngữ yêu. Đây là một trong những từ ngữ bị dùng sai nhiều hơn hết trong tiếng Anh. Chúng ta dùng chữ yêu để mô tả những cái thấp thỏi nhất cũng như những điều tôn quí nhất trong các mối tương giao (Người Mỹ thường thay động từ “thích” bằng “yêu” bảo rằng họ “yêu” du lịch, “yêu bánh xô cô la”, “yêu chiếc xe mới”, “yêu màu giấy dán tường”…Tất nhiên họ cũng nói họ “yêu nhà hàng xóm”, nhưng chỉ nói thế thôi chứ hầu như không làm gì để minh chứng “tình yêu” đó). Chính vì thế không ai ngạc nhiên khi thấy chúng ta không hiểu rõ khái niệm của Kinh Thánh bảo rằng: “Đức Chúa Trời là Tình Yêu.”
Bạn không nên phạm sai lầm nghĩ rằng vì Đức Chúa Trời là tình yêu nên mọi sự sẽ dễ thương, đẹp đẽ, vui vẻ và không ai sẽ bị trừng phạt. Sự thánh khiết của Đức Chúa Trời đòi mọi tội lỗi phải bị trừng trị, nhưng tình thương của Đức Chúa Trời cung ứng kế hoạch cứu chuộc tội nhân. Tình yêu của Đức Chúa Trời đã dự liệu thập tự giá cho Chúa Giê-xu, qua đó con người có thể được tha tội, được thanh tẩy. Chính tình yêu của Đức Chúa Trời đã để cho Chúa Giê-xu lên thập tự giá!
Bạn đừng bao giờ đặt vấn đề đối với tình yêu vĩ đại của Đức Chúa Trời, vì tình yêu đó không hề thay đổi, là thành phần trong Đức Chúa Trời y như đức thánh khiết của Ngài. Dù tội lỗi bạn có kinh khủng đến đâu, Đức Chúa Trời vẫn yêu thương bạn. Nếu Đức Chúa Trời không có tình thương như thế thì không một người nào trong chúng ta có hy vọng gì trong cuộc sống tương lai. Nhưng Đức Chúa Trời là tình yêu và tình yêu của Ngài là tình yêu muôn đời. Thánh Phao-lô viết trong Rô-ma 5:8 như sau: “Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Chúa Cứu Thế vì chúng ta chịu chết.”
Những lời hứa về tình yêu và sự tha thứ của Đức Chúa Trời là thật, là chắc chắn, là khẳng định hết mức diễn đạt của ngôn từ con người. Nhưng cũng giống như cách diễn tả đại dương, chúng ta sẽ không thể biết hết được vẻ đẹp của biển cả cho đến khi thấy tận mắt. Tình thương của Đức Chúa Trời cũng vậy. Cho đến khi bạn thực sự tiếp nhận, thực sự kinh nghiệm tình yêu của Ngài, cho đến khi bạn thực sự sở hữu sự bình an thật với Chúa thì không ai có thể mô tả cho bạn hiểu được những điều kỳ diệu trong tình yêu của Đức Chúa Trời.
Tình yêu không phải là cái bạn có thể hiểu bằng tâm trí. Tâm trí hữu hạn của bạn không thể hiểu nổi điều vĩ đại như tình yêu của Đức Chúa Trời. Trí óc bạn sẽ thấy thật khó giải thích sự kiện làm thế nào một con bò đen, ăn cỏ xanh mà lại cho sữa trằng- nhưng bạn vẫn thường uống sữa và nhận được sức lực từ sữa. Trí óc bạn không thể lý giải tất cả tiến trình phức tạp xảy ra khi hạt dưa hấu nhỏ bé bạn gieo mọc lên, trở thành một giây leo, sinh ra những quả dưa thật to, thật đỏ. Bạn không hiểu nhưng bạn vẫn ăn, vẫn thưởng thức quả dưa ngon ngọt đó! Bạn không hiểu hết về máy radio nhưng bạn vẫn nghe hàng ngày. Trí óc bạn không thể giải thích tại sao điện sinh ra ánh sáng dù bạn đang ngồi đọc sách dưới ánh đèn, nhưng bạn biết điện đang có đó và điện đang cho bạn phương tiện để đọc!
Bạn phải tiếp nhận Đức Chúa Trời bằng đức tin – đức tin nơi Con Đức Chúa Trời là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Khi có đức tin như thế bạn sẽ thấy nghi ngờ không còn chỗ đứng. Lúc đó bạn không cần hỏi Đức Chúa Trời có trong lòng bạn hay không vì bạn tự biết.
Mỗi khi có ai hỏi làm sao tôi biết chắc Đức Chúa Trời là ai và Ngài như thế nào, tôi lại nhớ đến câu chuyện về một cậu bé thả diều. Hôm đó là một ngày đẹp trời, thật lý tưởng để chơi diều. Gió đều và khá mạnh, bên trên nhiều lớp mây chồng chất đang đuổi nhau bay ngang bầu trời. Con diều bọc gió bay lên nhanh và mạnh, không bao lâu đã lên tít trên cao, khuất sau những cụm mây thấp. Một người đi qua hỏi cậu bé:
“Cháu đang làm gì đó?”
“Dạ, cháu thả diều.”
“Thế diều đâu sao không thấy? Cháu có chắc con diều trên đó không?”
“Dạ chắc chứ! Nó đang kéo căng sợi chỉ cháu cầm đây!”
Bạn không cần phải dựa vào lời ai khác nói về Đức Chúa Trời vì chính bạn có thể tìm gặp Ngài, lúc đó chính bạn cũng sẽ biết Ngài hiện hữu qua sức kéo êm dịu, lạ lùng tác động trên những sợi tơ trong tâm hồn. Bạn biết chắc Ngài đang ở đó!